✨Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (Việt Nam)
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 (TĐTDS&NO 2019), còn được gọi tắt là Tổng điều tra năm 2019 (TĐT 2019) là cuộc điều tra dân số quốc gia thứ 5 kể từ khi Việt Nam thống nhất, và là cuộc tổng điều tra thứ 8 do Tổng cục Thống kê tiến hành. Cuộc tổng điều tra bắt đầu vào ngày 1 tháng 4 năm 2019, và kéo dài 25 ngày, với sự tham gia của khoảng 147.000 điều tra viên thống kê. Đây là cuộc tổng điều tra quy mô lớn nhất tính đến thời điểm đó ở Việt Nam, được các cơ quan chức năng các cấp chuẩn bị gần 2 năm, và là lần đầu sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong tất cả công đoạn.
Cuộc tổng điều tra sẽ được tiến hành ở 63 tỉnh, thành phố cùng 3 Bộ có tính đặc thù gồm: Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao, với tổng kinh phí khoảng 1.100 tỷ đồng. Hoạt động này nhằm thu thập thông tin dân số ở Việt Nam, phục vụ nghiên cứu và phân tích, từ đó giúp hoạch định, xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đúng đắn, giám sát mục tiêu phát triển bền vững.
Kết quả sơ bộ được công bố vào 11 tháng 7 năm 2019, trong khi kết quả toàn bộ được công bố vào ngày 19 tháng 12 cùng năm. Theo đó, Việt Nam có dân số 96.208.984 người, tăng 10,4 triệu người sau 10 năm, tốc độ tăng trưởng dân số chậm hơn giai đoạn trước, mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức rất cao.
Bối cảnh
Năm 1960, tỷ lệ gia tăng dân số ở Việt Nam rất nhanh, gần 4%, số con trung bình trong độ tuổi sinh đẻ là hơn 6 con, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 về sinh đẻ có hướng dẫn, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đi đầu thực hiện chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình. Đến năm 1970, nhằm đẩy mạnh vận động hơn nữa, Uỷ ban Bảo vệ Bà mẹ và trẻ em được thành lập, nhưng nhanh chóng giải thể vào năm 1974. Tới năm 1975, tỷ lệ gia tăng dân số giảm xuống 2,4%, số con trung bình là 5,25 con. Giai đoạn này, nhà nước tiếp tục khuyến khích hạn chế sinh đẻ và chỉ nên có từ 1 đến 2 con, trừ một số trường hợp đặc biệt. Năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 58-HĐBT ngày 11/4/1984 về việc thành lập Ủy ban quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch. Tới 19 tháng 6 năm 1991, Chính phủ đã ban hành Nghị định 193-HĐBT thành lập Uỷ ban Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trực thuộc Chính phủ. Thời kỳ này cũng áp dụng chính sách khen thưởng và phạt, như cấp đất, nhà. Tới 2002, tổng tỷ suất sinh đã giảm xuống 2,8 con, tỷ lệ gia tăng dân số 1,3%/năm. Năm 2007, Việt Nam bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng. Năm 2009 quy định sửa lại thành "Mỗi cặp vợ chồng nên có 1-2 con". Vào năm 2011, Việt Nam bước vào giai đoạn già hóa dân số, đòi hỏi các chính sách và chương trình kịp thời giải quyết vấn đề trong tương lai.
Từ đầu thế kỷ 21, trong bối cảnh Việt Nam vẫn đang thực hiện chính sách giảm sinh, công nghệ xác định giới tính thai nhi phát triển mạnh mẽ, nhiều nơi vẫn còn tâm lý chuộng con trai, tỷ số giới tính khi sinh đang có xu hướng gia tăng.
Trong thời chiến, Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra dân số vào các năm 1960 và 1974 ở miền Bắc.
Mục đích
Cuộc điều tra dân số được tổ chức để thu thập thông tin chuyên sâu về nhân khẩu học. Từ đó, kết quả điều tra nhằm phục vụ việc nghiên cứu, phân tích và dự báo quá trình phát triển dân số và nhà ở, cung cấp thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp về dân số, đánh giá kết quả thực hiện các nghị quyết, kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các chỉ tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc. Kết quả cũng cung cấp cho chính quyền các cấp cơ sở quan trọng để xây dựng và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, bởi nguồn dữ liệu dân số từ các Bộ Tư pháp, Công an, Y tế sai lệch, không đủ chi tiết, cuộc tổng điều tra 2019 còn nhằm cập nhật đầy đủ thông tin, căn cứ để tiến tới không thực hiện điều tra vào năm 2029. Số liệu dân số cũng là căn cứ cụ thể để tiến hành sáp nhập địa giới hành chính.
Hình thức và nội dung
Cuộc tổng điều tra được tiến hành ở 63 tỉnh, thành phố cùng 3 Bộ có tính đặc thù gồm: Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao, với tổng kinh phí khoảng 1.100 tỷ đồng.
Một số nội dung chính của TĐT 2019 bao gồm: "Thông tin chung về dân số; tình trạng di cư; trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật; tình trạng khuyết tật; tình trạng hôn nhân; mức độ sinh, chết và phát triển dân số; tình hình đăng ký khai sinh của trẻ em; tình hình lao động - việc làm; thực trạng về nhà ở; điều kiện sinh hoạt cơ bản của hộ dân cư". Cuộc điều tra thu thập thông tin trên 2 nhóm phiếu. Nhóm tiêu chuẩn, điều tra toàn bộ dân số bao gồm 22 câu hỏi về dân số cơ bản và thông tin về nhà ở hộ gia đình. Nhóm câu hỏi phức tạp hơn, lấy 9% dân số làm mẫu, gồm 65 câu hỏi, thu thập thông tin chuyên sâu về dân số, nhân khẩu học và nhà ở.
Cùng với sử dụng rộng rãi công nghệ thông tin, một số điểm mới của tổng điều tra 2019 là chọn mẫu phân tầng 2 giai đoạn, đảm bảo tính đại diện của các chỉ tiêu đến cấp huyện, lồng ghép thông tin đáp ứng các chỉ tiêu phát triển bền vững và cải tiến quy trình vẽ sơ đồ nền xã/phường và phân chia địa bàn điều tra. Tổng cục cũng triển khai nghiên cứu thiết kế phương pháp luận và loại phiếu điều tra, xây dựng tài liệu hướng dẫn, thực hiện tập huấn, xây dựng mạng lưới Tổng điều tra và phân quyền cho lực lượng tham gia trên hệ thống quản lý điện tử, cũng như xây dựng các kế hoạch truyền thông tuyên truyền. Ngày 6 tháng 12 năm 2017, Thủ tướng ban hành chỉ thị số 44/CT-TTg về việc chuẩn bị tổng điều tra dân số.
Trong quý đầu tiên của năm 2018, Tổng cục đã áp dụng phiếu điện tử thu thập thông tin ở một số tỉnh và từ đó mở rộng triển khai sử dụng phiếu điện tử cho điều tra biến động dân số toàn quốc năm 2018. Tới tháng 9 năm 2018, Tổng cục đã triển khai điều tra tổng duyệt, đánh giá, hoàn thiện các quy trình và hoạt động, đảm bảo hệ thống xử lý. Tổng cục cũng đã thiết lập hệ thống tổng đài hỗ trợ miễn phí và hệ thống nhắn tin tự động. Các trung tâm tin học kiểm tra, rà soát, đánh giá hiện trạng hệ thống, đảm bảo hạ tầng CNTT, chuẩn bị nhân lực, đào tạo nghiệp vụ. Ngày 19 tháng 11 năm 2018, Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương họp phiên thứ nhất tổng hợp các công việc đã triển khai và chuẩn bị cho Tổng điều tra. Trong hai tháng cuối năm 2018, người lập bảng kê đến từng hộ ghi nhận các thông tin ban đầu về nhân khẩu thực tế, giới thiệu về phương pháp điều tra qua internet; và nếu có nhu cầu, người dân cung cấp số điện thoại để nhận địa chỉ truy cập, tên tài khoản và mật khẩu đăng nhập thực hiện điều tra vào ngày 31 tháng 3 năm 2019. Ngày 4 tháng 1 năm 2019, Ban chỉ đạo Trung Ương và Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức cuộc họp về công tác phối hợp trong tuyên truyền, triển khai các giải pháp đảm bảo đường truyền và an ninh mạng phục vụ cho cuộc Tổng điều tra.
Ngày 13 tháng 3 năm 2019, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Tổng điều tra Dân số và nhà ở Trung ương đã tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc về Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2019 kết nối tới 775 điểm cầu với 36.000 đại biểu tham dự.
Tiến trình
Cuộc tổng điều tra thứ 5 là lần có quy mô lớn nhất tính đến thời điểm đó,
Ở thành phố Hồ Chí Minh, toàn bộ công việc đều được thực hiện bằng thiết bị di động hoặc qua Internet, huy động trên 12.000 người tham gia công tác điều tra dân số trên gần 19.500 địa bàn. Đà Nẵng là một trong những địa phương có tỷ lệ khai trực tuyến cao nhất, chỉ huy động hơn 1.300 điều tra viên tham gia nhiệm vụ. Trong khi đó, toàn thành phố Hà Nội có khoảng 17,8 nghìn địa bàn điều tra và huy động hơn 12 nghìn điều tra viên thống kê. Hải Phòng huy động gần 1.500 người tham gia Ban chỉ đạo, hơn 2.300 điều tra viên và tổ trưởng. Lực lượng ngành Công an huy động trên 4.000 điều tra viên, trên 170 giám sát viên và tổ chức điều tra trên 3.000 địa bàn, với 2 mẫu điều tra riêng cho cán bộ chiến sĩ toàn ngành và phạm nhân, trại viên. Tới 13 tháng 4, tỷ lệ điều tra toàn quốc đã đạt trên 60%, vượt dự kiến đề ra. Tới sáng ngày 25 tháng 4, tỷ lệ ước tính đạt khoảng 99,95%. Sau ngày này, những người chưa thực hiện điều tra thì thông báo tới Ban Chỉ đạo trong 3 ngày 26, 27 và 28 tháng 4. Ban Chỉ đạo các cấp tới trước ngày 26 tháng 4 cần có báo cáo nhanh về Ban Chỉ đạo Trung ương để tổng hợp trình Chính phủ. Sau khi kết thúc giai đoạn thu thập thông tin, công tác phúc tra được thực hiện nhằm xác định sai số phạm vi, tìm ra các trường hợp bị ghi trùng hoặc bỏ sót. Kết quả phúc tra cho thấy tỷ lệ sai số thuần là 0,2%, tương đương với khoảng 143,000 người, trong khoảng cho phép. Kết quả của Tổng điều tra được đánh giá là tương đối chính xác, sát với những dự báo thống kê từ các nguồn số liệu khác nhau như Cơ quan thống kê Dân số Liên hợp quốc.
Ngày 11 tháng 7 năm 2019, Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương công bố kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Sáng 19 tháng 12 năm 2019, Ban chỉ đạo tổ chức Hội nghị công bố kết quả chính thức và Tổng kết Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Một năm sau, ngày 18 tháng 12 năm 2020, Tổng cục Thống kê đã tổ chức Hội nghị công bố Kết quả nghiên cứu chuyên sâu Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2019.
Chỉ tiêu chính
Việt Nam có dân số 96.208.984 người, mật độ là 290 người/km2, tập trung ở 2 khu vực Đồng bằng sông Hồng và khu vực Đông Nam Bộ. Sau 10 năm, dân số tăng 10,4 triệu người, bình quân tăng 1,14%/năm, giảm so với giai đoạn trước. Số dân ở thành thị là 33.122.548 người, bình quân tăng 2,64%/năm. Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng nhập cư lớn nhất. Tổng số hộ gia đình là 26.870.079, tăng 4,4 triệu hộ, tỷ lệ tăng số hộ bình quân là 1,8%/năm, thấp hơn so với giai đoạn 1999 – 2009 và là thấp nhất trong 40 năm. Mỗi hộ trung bình có 3,6 người, đa số đều có nhà ở. 99,4% hộ sử dụng điện lưới, 97,4% sử dụng nước hợp vệ sinh, 88,9% sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Trông số đó, 1.244 hộ không có nhà để ở, tương đương với 4.108 người. Thêm vào đó là 310 người lang thang cơ nhỡ, tổng cộng cả nước có 4.418 người hiện không có nhà ở.
Dân số nam là 47.881.061 người (49,8%) và nữ là 48.327.923 người (50,2%), tỷ số giới tính là 99,1 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính thay đổi theo nhóm tuổi (tuổi càng cao tỷ số càng thấp), và theo khu vực (tỷ số thành thị thấp hơn nông thôn). Mất cân bằng giới tính khi sinh đang ở mức rất cao, tỷ số giới tính khi sinh là 111,5 bé trai/100 bé gái, so với mức sinh học tự nhiên (104-106 trai/100 bé gái). Tuổi thọ trung bình là 73,6 tuổi; nam là 71,0 tuổi, nữ là 76,3 tuổi. Mức sinh cao nhất ở trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, trong khi Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp nhất. Phụ nữ có trình độ học vấn càng cao thì mức sinh càng thấp, chênh lệch về mức sinh giữa các dân tộc có xu hướng thu hẹp. Tình trạng sinh con ở tuổi chưa thành niên còn tồn tại, cao nhất ở trung du và miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên. Như vậy, Việt Nam đang ở trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng tốc độ già hóa dân số đang có xu hướng tăng nhanh.
Trình độ dân trí được cải thiện; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học ngoài nhà trường giảm còn 8,3%. Tuy vậy, tỷ lệ người trên 15 tuổi không có trình độ chuyên môn kỹ thuật là gần 81%. 2,05% dân số từ 15 tuổi trở lên rơi vào tình trạng thất nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra mạnh mẽ; lần đầu tiên, số người làm dịch vụ cao hơn số người trong khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản.) và 310 người lang thang cơ nhỡ, Đà Nẵng có năm hộ không có nhà ở (0,0016%), và thành phố Hồ Chí Minh có 39 hộ không có nhà ở. Điều này đã gây khá nhiều tranh cãi. Theo định nghĩa của ngành Thống kê, “Hộ không có nhà ở - ở đây là những hộ sống ở lều, lán trại, vỉa hè”, nơi có tính riêng biệt, dựng vách, làm cửa, có sàn, mái thì được xem là nơi ở. Bên cạnh đó, việc điều tra không phụ thuộc chủ quyền nhà mà chỉ dựa vào nơi ở. Định nghĩa này khác với tiêu chí của Bộ Xây dựng. Để so sánh, theo Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh, trên địa bàn có khoảng 476 nghìn hộ chưa có nhà ở hoặc đang sống chung với cha mẹ, người thân, gấp 12 nghìn lần con số Cục thống kê. Trong khi đó, đại diện một số quận huyện cũng phản bác con số của Cục Thống kê thành phố. Đơn cử, do "chưa sâu sát đặc thù nghề nghiệp của các hộ", huyện Cần Giờ cho rằng Cục đã thống kê sai số hộ chưa có nhà ở trên địa bàn bởi các hộ này đều đã có nhà ở các địa phương khác. Bên cạnh đó, số liệu về dân số do Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh đưa ra cũng gây "ngờ vực". Theo đó, thành phố có 8,9 triệu dân trong khi nhiều người cho rằng phải đến 14-15 triệu,
Trích dẫn
Thể loại:Điều tra dân số Thể loại:Thông tin nhân khẩu học Việt Nam Thể loại:Việt Nam năm 2019