✨Tổ hợp tên lửa Buk
Hệ thống tên lửa Buk (; - cây sồi) là một dòng các hệ thống tên lửa đất đối không tầm trung, tự hành được phát triển bởi Liên Xô (cũ) và Nga. Hệ thống này được thiết kế để tiêu diệt các tên lửa hành trình, các loại bom chính xác, máy bay trực thăng và cánh cố định, và máy bay không người lái.
Hệ thống tên lửa Buk là sự kế thừa của hệ thống NIIP/Vympel 2K12 Kub (tên ký hiệu NATO là SA-6 "Gainful"). Phiên bản đầu tiên của Buk được chấp nhận trang bị trong quân đội Liên Xô và Nga với mã định danh GRAU là 9K37 và có tên ký hiệu do NATO đặt là "Gadfly" cũng như tên định danh của Bộ Quốc phòng Mỹ đặt là SA-11. Kể từ khi được đưa vào trang bị, hệ thống tên lửa Buk đã được cải tiến nâng cấp liên tục với phiên bản mới nhất mang tên 9K37M2 "Buk-M2".
Phát triển
Sự phát triển của 9K37 "Buk" được bắt đầu vào ngày 17 tháng năm 1972 theo yêu cầu của Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhóm phát triển gồm nhiều cơ quan từng chịu trách nhiệm phát triển của hệ thống tên lửa 2K12 "Kub" (tên ký hiệu NATO "Gainful", SA-6), bao gồm Viện nghiên cứu khoa học thiết kế công cụ mang tên Tikhomirov (NIIP) là đơn vị chịu trách nhiệm chính và phòng thiết kế Novator chịu trách nhiệm phát triển tên lửa.
Hệ thống tên lửa Buk được thiết kế vượt trội hơn 2K12 Kub trong tất cả các tham số và những nhà thiết kế bao gồm cả tổng công trình sư Ardalion Rastov đã đến Ai Cập vào năm 1971 để xem Kub tham gia chiến đấu. Cả Kub và Buk đều sử dụng các xe phóng tự hành được phát triển bởi Ardalion Rastov. Sau chuyến thăm Ai Cập, các nhà phát triển đi tới kết luận rằng mỗi xe mang phóng (TEL) nên có đài radar điều khiển hỏa lực của riêng nó hơn là dựa vào một đài radar trung tâm cho toàn bộ hệ thống như của hệ thống Kub. 3S-90 sử dụng cùng đạn tên lửa 9M38 như hệ thống 9K37 dù hệ thống phóng và các đài radar điều khiển kết hợp đã được đổi nhằm phù hợp với các biến thể hải quân. Hệ thống được thử nghiệm trong giai đoạn 1974-1976 trên tàu chống ngầm đề án 61, 3S-90 được chấp nhận trang bị năm 1983 cho các tàu khu trục đề án 956 "sovremmeny". Thế hệ mới này của hệ thống tên lửa Buk đã bị trì hoãn trang bị do điều kiện kinh tế sau khi Liên Xô sụp đổ, tuy nhiên hệ thống gần đây đã được trưng bày tại triển lãm hàng không MAKS 2007. Phiên bản xuất khẩu của hệ thống Buk-M2E cũng được gọi là Ural.
Vào tháng 10 năm 2007, tướng Nikolaï Frolov, tư lệnh lực lượng phòng không của Lục quân Nga, tuyên bố rằng Quân đội Nga sẽ nhận được các đơn vị tên lửa Buk mới có tên gọi Buk-M3 nhằm thay thế cho Buk-M1. Ông nói rằng M3 sẽ có các thành phần điện tử tiên tiến và được đưa vào trang bị năm 2009.
Miêu tả
phải|Radar bắt mục tiêu (TAR) 9S18M1-1 Tube Arm của hệ thống Buk-M1-2 (TAR) tại triển lãm hàng không MAKS 2005 Một tiểu đoàn Buk tiêu chuẩn bao gồm một xe chỉ huy; 1 trạm trinh sát/bắt bám và điều khiển đặt trên xe (TAR); 6 xe phóng (TELAR), mỗi xe mang 4 quả tên lửa sẵn sàng phóng và 4 quả dự trữ; và 3 xe tiếp đạn. Một khẩu đội tên lửa Buk gồm 2 xe TELAR và TEL. Khẩu đội chỉ cần 5 phút để triển khai chiến đấu và rút khỏi trận địa sau khi phóng. Thời gian phản ứng của khẩu đổi từ khi theo dõi mục tiêu tới khi phóng tên lửa là khoảng 22 giây.
Xe TELAR Buk-M1-2 sử dụng khung gầm GM-569 được thiết kế và sản xuất bởi công ty cổ phần Metrowagonmash (trước kia là MMZ), trên xe TELAR đặt một bệ phóng có 4 đạn tên lửa sẵn sàng phóng và đài radar điều khiển hỏa lực. Mỗi xe TELAR được vận hành bởi một kíp chiến đầu 3 người và được trang bị hệ thống bảo vệ chống NBC. Buk-M1-2 sử dụng 1 radar trinh sát tầm xa 9S117M1 Kupol-2 Snow Drift, tầm phát hiện 100 km; 1 radar bắt bám mục tiêu 9S35M2 Fire Dome hoạt động trong dải sóng H/I tầm hoạt động 120 km, có thể theo dõi tên lửa từ tầm 32 km/20 mi và theo dõi máy bay bay ở độ cao 15,000 đến 22,000 m. Nó có thể điều khiển 3 tên lửa tiêu diệt một mục tiêu. BUK-M1-2 có thể cùng lúc kiểm soát 75 mục tiêu, cung cấp các thông số cụ thể về 15 mục tiêu nguy hiểm nhất. Hệ thống 9K37 có các đặc tính ECCM tốt hơn (như khả năng chống nhiễu/ECM) so với hệ thống 3M9 Kub. Một hệ thống theo dõi quang học với máy đo xa laser cũng được trang bị để theo dõi thụ động mục tiêu. Hệ thống 9K37 cũng có thể sử dụng cùng một đài radar 1S91 Straight Flush sóng liên tục băng G/H công suất 25 kW như hệ thống 3M9 Kub.
9K37 sử dụng radar trinh sát tầm xa mục tiêu 9S18 "Tube Arm" hoặc 9S18M1 (Snow Drift) () kết hợp với radar bắt bám mục tiêu 9S35 hoặc 9S35M1 "Fire Dome" được đặt trên xe TELAR. Radar 9S18M1 có tầm phát hiện mục tiêu là 85 km và có thể phát hiện máy bay đang bay ở độ cao 100 m (330 ft) từ khoảng cách 35 km (22 mi) và thậm chí các mục tiêu bay thấp hơn ở khoảng cách 10–20 km (6-12 mi).
Xe tiếp đạn cho khẩu đội Buk giống như xe TELAR nhưng thay vì một radar nó có một cần trục để nạp đạn tên lửa. Chúng có khả năng phóng tên lửa trực tiếp nhưng đòi hỏi sự kết hợp của một xe TELAR trang bị radar Fire Dome để điều khiển đạn. Một xe tiếp đạn có thể nạp cho một xe TELAR trong khoảng 13 phút và có thể nhận thêm đạn từ kho trong khoảng 15 phút.
3S-90 "Uragan"
phải|Hệ thống tên lửa Shtil-1 3S-90 "Uragan" () là biến thể hải quân của 9K37 "Buk" và có tên mã NATO là "Gadfly" và tên định danh do Bộ quốc phòng Mỹ đặt là SA-N-7, nó cũng mang tên định danh là M-22. Phiên bản xuất khẩu của hệ thống này được biết đến với tên gọi "Shtil" (). Tên lửa 9M38 của hệ thống 9K37 "Buk" cũng được sử dụng cho 3S-90 "Uragan". Hệ thống phóng có sự khác biệt với tên lửa được nạp theo chiều thẳng đứng, bệ phóng này được nạp đạn bổ sung từ kho đạn ở boong dưới với một sức chứa 24 quả, thời gian nạp mất 12 giây Công ty phụ trách phát triển NIIP đã thông báo về việc thử nghiệm đạn tên lửa 9M317A với chương trình Buk-M1-2A "OKR Vskhod" (Sprout) vào năm 2005. Tầm bắn được thông báo của đạn tên lửa lên đến 50 km (31 dặm), độ cao lớn nhất khoảng 25 km (82,000 ft) và tốc độ của mục tiêu lớn nhất đạt khoảng Mach 4. Trọng lượng của đạn tên lửa tăng nhẹ lên 720 kg (1587 lb).
Các biến thể khác
nhỏ|phải|Xe TELAR 9A317 của Buk-M2E (phiên bản xuất khẩu) tại triển lãm hàng không MAKS 2007 nhỏ|phải|Phía sau của xe TELAR 9A317 của Buk-M2E (phiên bản xuất khẩu) tại triển lãm hàng không MAKS 2007
- 9K37-1 'Buk-1' – Biến thể hệ thống Buk đầu tiên được chấp nhận trang bị, kết hợp một xe 9A38 TELAR trong một khẩu đội 2K12M3 Kub-M3.
- 9K37 'Buk' – Hệ thống tên lửa Buk hoàn chỉnh với tất cả các thành phần hệ thống mới, tương thích ngược với Kub.
- 9K37M1 'Buk-M1' – Một biến thể cải tiến 9K37, trang bị cho lục quân Liên Xô.
- 9K37M1-2 'Buk-M1-2' – Một biến thể cải tiến của 9K37M1 'Buk-M1', trang bị cho lục quân Liên Xô.
- Tại triển lãm MILEX-2005 ở Minsk, Belarus giới thiệu phiên bản cải tiến 9K37 Buk của mình gọi là Buk-MB.
- 9K37M2/9K317 'Buk-M2'
- 3S-90/M-22 'Uragan' – Phiên bản Hải quân của hệ thống tên lửa 9K37 Buk.
- SA-N-12 – Tên mã NATO của phiên bản hải quân 9K37M1-2.
- HQ-16 (Hongqi-16) – Đề án hợp tác giữa Trung Quốc và Nga nhằm nâng cấp hệ thống hải quân 9K37M1-2 'Shtil' (SA-N-12). Other sources also indicate the project involved some Buk technology.
Cấu trúc
Cơ cấu tổ hợp tác chiến
nhỏ|TEL 9A316 nhỏ|TEL 9A317 Vũ khí, trang bị kỹ thuật của tổ hợp chiến đấu Buk được chia thành hai nhóm chính: Nhóm vũ khí, khí tài chiến đấu và Nhóm trang bị bảo đảm chiến đấu. Các thành phần của một tổ hợp chiến đấu bao gồm:
- Xe chỉ huy KP (КП - Командный пункт: xe chỉ huy), ký hiệu NATO: CP (Command post)
- Xe ra-đa trinh sát và chỉ thị mục tiêu SOTs (СОЦ - Станция обнаружения и целеуказания), ký hiệu NATO: TAR (Target acquisition radar)
- Xe ra-đa chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa RPN (РПН - Радиолокационная станция подсвета целей и наведения ракет): chỉ có ở 9K317 Buk-M2, ký hiệu NATO: SURN (Self-propelled Reconnaissance and Homing Vehicle)
- Xe phóng tự hành SOU (СОУ - Самоходная огневая установка): Còn được viết là TELAR (Transporter erector launcher and radar)
- Xe phóng chấp hành kiêm tiếp đạn PZU (ПЗУ - Пуско-заряжающая установка), ký hiệu NATO: TEL (Transporter erector launcher) Tổ chức một tổ hợp chiến đấu trang bị đủ của hệ thống Buk có thể khác nhau tùy hệ thống và phiên bản trang bị. Theo biên chế của Nga, một tổ hợp tác chiến tiêu chuẩn như sau:
- KP cấp trên đối với tổ hợp tác chiến độc lập hoặc Đài điều khiển và kiểm soát PBU (ПБУ - Пост боевого управления hoặc Пункт боевого управления) của một lữ đoàn tên lửa trang bị đủ zrbr (зрбр - зенитная ракетная бригада) trong cấu trúc của Hệ thống điều khiển tự động Polyana-D4.
4 tiểu đoàn zrdn (зрдн - зенитный ракетный дивизион)
** 1 xe KP
1 xe SOTs
6 xe SOU
3 xe PZU
3 khẩu đội trực thuộc zrbat (зрбат - зенитная ракетная батарея)
** 2 xe SOU
1 xe PZU
Đơn vị kỹ thuật
Trung đội thông tin
9K37 Buk
nhỏ|TEL 9A316 nhỏ|TEL 9A317
- Xe KP 9S470
- Xe SOTs 9S18 Kupol
- Xe SOU 9А310
- Xe PZU 9А39
2K12M4 Kub-M4 (9K37-1 Buk-1)
- Xe RPN 1S91M3 (từ cấu trúc của 2K12M3 Kub-M3)
- Xe PZU 2P25M3 (từ cấu trúc của 2K12M3 Kub-M3)
- Xe SOU 9A38 (từ cấu trúc của 9K37 Buk)
9K37M1 Buk-M1 (Ganges)
- Xe KP 9S470M1
- Xe SOTs 9S18M1 Kupol
- Xe SOU 9А310M1
- Xe PZU 9А39M1
9K37M1-2 Buk-M1-2 (Ural)
- Xe KP 9S470M1-2
- Xe SOTs 9S18M1-1 Kupol
- Xe SOU 9А310M1-2
- Xe PZU 9А39M1-2
9K317 Buk-M2
- Xe KP 9S510
- Xe SOTs 9S18M1-1 Kupol
- Xe RPN 9S36
- Xe PZU 9А316
9K37M1 Buk-M1 (Ganges)
Đơn vị kỹ thuật
- 9V95M1E – xe cơ động chở đài thí nghiệm – kiếm tra tự động hóa trên ZiL-131 và rơ moóc.
- 9V883, 9V884, 9V894 - xe phục vụ sửa chữa kỹ thuật trên gầm Ural-43203-1012.
- 9V881E - xe phục vụ kỹ thuật Ural-43203-1012.
- 9T229 - xe vận tải dành cho 8 tên lửa phòng không (hoặc 6 thùng với tên lửa) trên gầm xe KrAZ-255B.
- 9T31M - cần cẩu tự động.
- MTO-ATG-M1 - xe bảo trì kỹ thuật trên gầm Zil-131.
9K37M1-2 Buk-M1-2 (Ural)
Xe đài chỉ huy 9S470M1-2 có thể điều khiển 4 khẩu đội, mỗi khẩu đội có 1 TELAR 9A310M1-2 với 1 x TEL 9A39M1/9A39M1-2 hoặc 2 khẩu đội, mỗi khẩu đội có 1 radar trinh sát mục tiêu 9S18М1-1 và 2 x TELs 9A39M1
Ngoài ra, TELAR 9A310M1-2 có thể được điều khiển qua xe điều khiển của Kub – chỉ xe TEL 2P25 hoặc SURN 1S91 với một TEL 2P25.
Đơn vị kỹ thuật
- Xe phục vụ sửa chữa kỹ thuật MTO 9V881M1-2 với một rơ mooc ZIP 9T456
- Xe bảo trì kỹ thuật MTO AGZ-M1
- Xe phục vụ sửa chữa kỹ thuật MRTO: MRTO-1 9V883M1, MRTO-2 9V884M1, MRTO-3 9V894M1
- Xe vận tải (TM) 9T243 với bộ thiết bị kỹ thuật KTO 9T3184
- Xe cơ động chở đài thí nghiệm – kiếm tra tự động hóa AKIPS 9V95M1
- Xe sửa chữa kỹ thuật bảo trì đạn tên lửa 9T458
- Xe máy nén UKS-400V
- Máy phát điện cơ động PES-100-T/400-AKP1
9K37M2/9K317 Buk-M2
Có thử nghiệm một xe TEL 9А320 TEL (với 8 đạn tên lửa).
Một số công việc đã được thực hiện để sử dụng một xe bánh hơi cho Buk-M2-1 trên khung gầm xe KrAZ-260, nhưng không hoàn thành. Đề xuất cấu trúc của Buk-M2-1 là 9S512 CP, 9S112-1 TAR, 9S36-1 TAR và 9А318 TEL với 8 tên lửa.
Lịch sử hoạt động
Quốc gia sử dụng
Các quốc gia hiện đang trang bị hệ thống tên lửa Buk *: Vẫn còn sử dụng và là nước sản xuất ra Hệ thống tên lửa Buk
-
- 12 khẩu đội
-
- 21 đơn vị
- – chưa xác nhận
-
- 3 khẩu đội (18 xe phóng) – đã bị thay thế
-
- 250 *- đã mua một số lượng không xác định buk m2e
Quốc gia không còn sử dụng
*: Chuyển giao cho Liên Bang Nga
Phục vụ
nhỏ|phải|Xe phóng 9K37M1 của hệ thống Buk-M1 (SA-11 Gadfly) của Phần Lan (đạn tên lửa đang ở trạng thái vận chuyển) Năm 1996, Phần Lan bắt đầu vận hành 18 hệ thống mà họ có được từ Nga, đây được coi như là Nga trả nợ. Theo Suomen Kuvalehti, Phần Lan đang lên kế hoạch thay thế các hệ thống tên lửa này do lo lắng về tính nhạy cảm của nó trong tác chiến điện tử..
Chiến đấu
Chính quyền Abkhaz tuyên bố rằng hệ thống phòng không Buk đã được sử dụng để bắn hạ 4 máy bay không người lái của Gruzia vào đầu tháng 8-2008.
Các nhà phân tích cho rằng các hệ thống tên lửa Tor và Buk của Gruzia có thể đã bắn hạ 4 máy bay chiến đấu của Nga—3 chiếc Sukhoi Su-25 và 1 chiếc máy bay ném bom chiến lược Tupolev Tu-22M —trong cuộc chiến tranh Nam Ossetia 2008. Giới chức Hoa Kỳ nói hệ thống Buk-1M của Gruzia đã bắn hạ Tu-22M và 3 chiếc Su-25. Theo một số nhà phân tích, việc 4 chiếc máy bay bị bắn hạ là đáng ngạc nhiên và gây ra thiệt hại lớn cho Nga khi Gruzia chỉ có một lực lượng quân đội nhỏ. Một số người cũng chỉ ra rằng, các hệ thống chế áp điện tử dường như không gây nhiễu và ngăn chặn các tên lửa SAM của Gruzia trong cuộc xung đột và đáng ngạc nhiên là Nga không thể đưa ra biện pháp đối phó hiệu quả đối với chính hệ thống tên lửa mình thiết kế.
Vào ngày 29 tháng 1 năm 2013, không quân Do thái cho máy bay tấn công một đoàn xe vận tải ở Syria, vì họ cho là đang chuyên chở hỏa tiễn SA-17 BUK-M2E cho nhóm Hezbollah ở Lebanon. Chính quyền Syria phủ nhận việc này.
Hệ thống tên lửa này bị cho là đã được sử dụng để bắn rơi chiếc máy bay dân sự trong Chuyến bay 17 của Malaysia Airlines (Boeing 777-200ER) vào ngày 17 tháng 7 năm 2014 tại vùng Donetsk, miền Đông của Ukraina gây tử thương cho tất cả 298 người trên tàu. Videos đã được đưa lên mạng bởi nhóm nổi dậy ly khai thân Nga, chỉ ngay sau khi máy bay bị rơi xuống, loan báo đã dùng hỏa tiễn này để bắn rớt một chiếc An-26 trong khu vực này, cùng với những hình ảnh cho thấy mảnh vỡ máy bay đang bị cháy để làm bằng chứng.
Trong trận đánh trả cuộc tập kích bằng 105 tên lửa hành trình của Anh-Pháp-Mỹ nhằm vào Syria ngày 14/4/2018. Theo phát ngôn của Nga phòng không Syria đã sử dụng các tổ hợp SA-3, SA-6, SA-8, hệ thống tên lửa Buk và Pantsir-S1, tổng cộng đã bắn hạ 71 trong tổng số 105 tên lửa hành trình của đối phương. 24 trong số 29 tên lửa phóng từ các tổ hợp Buk đã diệt mục tiêu thành công, bắn hạ 24 tên lửa hành trình đối phương, góp phần bảo vệ an toàn cho các sân bay của Syria
Trong xung đột Syria - Thổ Nhĩ Kỳ đầu năm 2020, các hệ thống Buk-M2E của Syria đã thực hiện 25 vụ phóng tên lửa đánh chặn, bắn hạ thành công 20 máy bay không người lái (UAV) và làm hỏng thêm 2 chiếc UAV khác của Thổ Nhĩ Kỳ, đạt tỷ lệ trúng đích 88%.