✨Thời kỳ Asuka

Thời kỳ Asuka

là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 538 đến năm 710, mặc dù giai đoạn khởi đầu của thời kỳ này có thể trùng với giai đoạn cuối của thời kỳ Kofun. Thời kỳ Asuka được đặt theo tên vùng Asuka, cách thành phố Nara hiện giờ khoảng 25 km về phía nam. Quốc gia Yamato, ra đời trong thời kỳ Kofun, phát triển rất nhanh trong thời kỳ Asuka. Nhiều cung điện hoàng gia được xây dựng trong vùng ở thời kỳ này.

Thời kỳ Asuka được biết đến với những thay đổi quan trọng về nghệ thuật, xã hội và chính trị. Những thay đổi này có nguồn gốc vào cuối thời Kofun, nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của sự xuất hiện của đạo Phật ở Nhật Bản. Phật giáo xuất hiện đánh dấu một thay đổi lớn trong xã hội Nhật Bản. Thời kỳ Asuka còn được phân biệt với các thời kỳ khác bởi sự thay đổi tên của quốc gia từ Oa quốc (倭) thành Nhật Bản (日本).

Dựa trên những thay đổi về mặt nghệ thuật, thời kỳ này có thể được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn Asuka (cho tới cải cách Taika), khi những nhân tố Phật giáo đầu tiên xuất hiện với ảnh hưởng từ Bắc Ngụy và Bách Tế, và giai đoạn Hakuho (từ sau cải cách Taika) khi những ảnh hưởng của nhà Tùy và nhà Đường bắt đầu xuất hiện.

Tên gọi

Thuật ngữ "thời kỳ Asuka" đầu tiên được sử dụng để mô tả một giai đoạn trong lịch sử nghệ thuật và kiến trúc Nhật Bản. Nó được sử dụng lần đầu bởi các học giả nghiên cứu lịch sử nghệ thuật Sekino Tadasu và Okakura Kakuzo vào khoảng năm 1900. Sekino xem thời Asuka kết thúc cùng với cải cách Taika vào năm 646 trong khi Okakura xem thời kỳ này kết thúc với việc dời đô sang điện Heijo ở Nara. Mặc dù các sử gia thường sử dụng mốc thời gian của Okakura, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật và kiến trúc ưa thích cách phân loại của Sekino hơn, và sử dụng thuật ngữ "thời kỳ Hakuho" để chỉ giai đoạn sau cải cách Taika.

Quốc gia Yamato

Chính thể Yamato, nổi lên vào cuối thế kỷ 5, tiêu biểu bởi các lãnh chúa hùng mạnh, các gia tộc và những cận thần của họ. Mỗi gia tộc do một tộc trưởng đứng đầu. Tộc trưởng cũng là người tiến hành các nghi lễ tế thần (kami) của bộ tộc để cầu bình an cho bộ tộc. Các thành viên của dòng họ tộc trưởng là những quý tộc và có vai trò quan trọng trong triều đình Yamato. Các lãnh chúa địa phương trong thời Yamato sau đó trở thành những thành viên của triều đình hoàng gia vào đầu thời kỳ Asuka.

Việc triều đại Yamato bắt đầu từ bao giờ vẫn còn là một việc gây tranh cãi. Sự thống trị trên toàn lãnh thổ Nhật Bản có lẽ chỉ bắt đầu từ cuối thời kỳ Kofun hoặc vào đầu thời kỳ Asuka.

Thời kỳ Asuka, một phân kỳ của thời kỳ Yamato, là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản có một vương triều Nhật Bản cai trị tương đối hoàn chỉnh vùng đất nay thuộc tỉnh Nara, còn khi đó được gọi là tỉnh Yamato.

Triều đình Yamato, tập trung ở vùng Asuka, áp đặt quyền lực lên các lãnh chúa ở Kyushu và Honshu, phong tước hiệu, một số được cha truyền con nối, cho các lãnh chúa ở đó. Cái tên Yamato bắt đầu được dùng để chỉ chung cả Nhật Bản từ khi triều đình Yamato áp chế được các lãnh chúa địa phương và kiểm soát đất đai nông nghiệp. Dựa theo hình mẫu Trung Quốc (bao gồm cả việc tiếp thu chữ Hán), triều đình Yamato phát triển một hệ thống hành chính tập trung với các buổi thiết triều có sự tham gia của những người đứng đầu các bộ tộc nhưng vẫn chưa có thủ đô chính thức. Vào giữa thế kỷ 7, diện tích đất nông nghiệp biến thành đất công, do chính sách cai trị tập trung, đã là khá lớn. Đơn vị hành chính cơ bản nhất của hệ thống Gokishichido là cấp xã, và xã hội được tổ chức thành các nhóm phường hội làm các nghề khác nhau. Hầu hết là nông dân, ngoài ra còn có ngư dân, thợ dệt, thợ làm đồ gốm, thợ trang trí nhà cửa, thợ làm đồ sắt và những người có trách nhiệm đặc biệt trong các nghi lễ tôn giáo.

Triều đình Yamato có quan hệ với vương quốc Gaya trên bán đảo Triều Tiên. Khi đó, người Nhật gọi vương quốc Gaya là Mimana. Có những cứ liệu khảo cổ học từ các lăng mộ thời kỳ Kofun cho thấy có sự tương đồng về hình dáng, nghệ thuật và các lớp vải phủ ngoài của những đồ vật chôn theo. Một nguồn khác cũng đề cập tới mối liên hệ này là cuốn Nihon Shoki. Trong một thời gian dài, các sử gia Nhật Bản cho rằng Gaya là một thuộc địa của Yamato, một giả thuyết giờ đây đã bị bác bỏ. Một giả thuyết khác dễ được chấp nhận hơn là cả những quốc gia ở Triều Tiên và Nhật Bản khi đó đều là chư hầu của các triều đình nhà Tùy và nhà Đường ở Trung Quốc.

Dòng họ Soga và Thánh Đức Thái tử

:Xem thêm Thánh Đức Thái tử. nhỏ|phải|Tōhon Miei, Chân dung Thái tử Shōtoku và hai con trai ông, thế kỷ 8? Gia tộc Soga kết hôn với hoàng tộc, và vào năm 587, Soga no Umako, tộc trưởng dòng họ Soga, trở nên quyền lực đến mức ông đã có thể đặt cháu mình lên ngôi hoàng đế, sau đó lại giết hoàng đế đó và thay bằng Nữ hoàng Suiko (593-628).

Suiko, nữ hoàng đầu tiên trong tám nữ hoàng, chỉ là một con rối trong tay Umako và quan nhiếp chính Thánh Đức Thái tử (574-622).

Thánh Đức Thái tử, được xem là một bộ óc cải cách vĩ đại của thời kỳ này, là một tín đồ Phật giáo trung thành có học vấn uyên thâm. Ông chịu ảnh hưởng lớn từ Nho giáo và tin vào thiên mệnh. Dưới sự cai trị của Thánh Đức, các khái niệm cương thường trong Nho giáo được áp dụng vào xã hội Nhật Bản, thể hiện qua bộ luật 17 điều Kenpo jushichijo.

Ngoài ra, Thánh Đức còn áp dụng lịch Trung Quốc vào Nhật Bản, phát triển một hệ thống đường sá cho thương mại, xây dựng nhiều đền thờ Phật, ghi chép sử ký của triều đại Yamato và cử những triều thần sang Trung Quốc học về đạo Phật và đạo Nho. Trong giai đoạn này, Ono no Imoko cũng đã được cử đi sứ đến Trung Quốc.

Nhiều phái đoàn Nhật Bản bao gồm các triều thần, những nhà sư và các du học sinh đã được cử đến Trung Quốc trong thế kỷ 7. Một số ở lại đó hàng 20 năm và rất nhiều người trở về Nhật Bản sau đó trở thành những nhà cải cách tầm cỡ. Việc cử các học giả sang học hỏi hệ thống chính trị Trung Quốc cho thấy sự thay đổi quan trọng so với thời kỳ Kofun, vào lúc năm quốc gia Oa quốc chỉ cử các phái đoàn sang để cầu phong.

Thánh Đức thậm chí còn làm triều đình Trung Quốc nổi giận khi ông tìm kiếm sự bình đẳng với các hoàng đế Trung Hoa qua những lá thư chính thức mà ông xưng hô là "Thiên tử của đất nước mặt trời mọc gửi Thiên tử của đất nước mặt trời lặn".

Một số học giả Nhật Bản cho rằng sự can đảm đó của Thánh Đức đã đặt ra một tiền lệ quan trọng khi Nhật Bản từ đó về sau không bao giờ chấp nhận địa vị chư hầu trong quan hệ với Trung Quốc nữa, trừ thời điểm sau này Ashikaga Yoshimitsu đã chấp nhận mối quan hệ như vậy trong thế kỷ 15. Kết quả là Nhật Bản trong thời kỳ này không hề phải cầu phong Trung Quốc dù họ vẫn phải nộp cống. Xét theo quan điểm của Trung Quốc thời kỳ đó, Nhật Bản đã là một nước phiên thuộc từ các thế kỷ trước khi các vị vua cai trị Nhật Bản đều cầu phong của Trung Quốc. Mặt khác, Nhật Bản dần lơ là các quan hệ chính trị với Trung Quốc và thay vào đó bằng những liên hệ thuần túy về văn hóa và học thuật.

Cải cách Taika và bộ luật Ritsuryo

Cải cách Taika

Khoảng 20 năm sau khi Thánh Đức Thái tử, Soga no Umako và Nữ hoàng Suiko lần lượt qua đời, những cuộc vận động tranh giành quyền lực trong triều đình đã dẫn đến một cuộc lật đổ sự kiểm soát củagia tộc Soga vào năm 645. Cuộc lật đổ do Hoàng tử Naka no Oe và Nakatomi no Kamatari cầm đầu giành lại quyền kiểm soát triều chính từ tay gia tộc Soga và mở đầu cho cuộc cải cách Taika (Taika no Kaishin).

Giai đoạn từ 645 đến 649 trong lịch sử Nhật Bản do đó còn được gọi là thời kỳ Taika, có nghĩa là "Đại hóa" (Sự thay đổi lớn). Sự kiện dẫn đến cuộc cải cách Taika được gọi là sự biến năm Ất Tỵ, cuộc đảo chính năm 645.

Mặc dù không tạo ra một định chế pháp luật, cải cách Taika, thông qua nhiều cải biến quan trọng, đã đặt nền tảng cho bộ luật ritsuryo là một hệ thống các cơ chế vận hành xã hội, bộ máy hành chính và tài chính của Nhật Bản từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10. Ritsu là bộ hình luật, còn ryo là bộ luật hành chính. Kết hợp lại, chúng tạo thành một bộ luật hoàn chỉnh dựa bao gồm những điều khoản riêng rẽ đã được thừa nhận từ thời cải cách Taika.

Cải cách Taika chịu nhiều ảnh hưởng từ Trung Quốc và bắt đầu với việc phân chia lại đất đai hướng đến việc kết thúc hệ thống sở hữu đất đai hiện hành của các lãnh chúa lớn cũng như sự kiểm soát của họ với các lãnh địa và các làng nghề. Đất tư và tá điền trở thành đất công và nông dân tự do khi triều đình tìm cách kiểm soát toàn bộ Nhật Bản và buộc mọi người dân phải phục tùng chính quyền trung ương. Đất đai không còn được cha truyền con nối nữa mà chuyển sang cho nhà nước khi người chủ đất chết đi. Các loại thuế đánh dựa trên thu hoạch nông nghiệp và đánh vào vải, bông, lụa, các hầm mỏ cũng như các sản phẩm khác. Ngoài ra, nông dân còn phải đi phu xây dựng các công trình quân sự hoặc công cộng. Hệ thống cha truyền con nối ở các lãnh địa của các lãnh chúa bị hủy bỏ thay bằng một hệ thống mới với ba thừa tướng trợ giúp công việc cho nhà vua được thiết lập bao gồm Tả đại thần, Hữu đại thần và Thái chính đại thần.

Đất nước gồm các lãnh thổ gọi là châu (州, shū) và quốc (国, kuni). Quốc là lãnh thổ tự trị, do các lãnh chúa đứng đầu, còn Châu là đơn vị hành chính trực thuộc triều đình, đứng đầu có châu mục do triều đình chỉ định. Các châu lại được chia thành các quận (郡, gun) và huyện (県, agata).

Naka no Oe tiếp tục là Thái tử nhiếp chính, trong khi Kamatari được ban cho họ mới là Fujiwara, như một phần thưởng cho những đóng góp của ông cho triều đình. Dòng họ Fujiwara sau đó trở thành một dòng họ quý tộc lâu đời ở Nhật Bản. Một thay đổi lâu đời khác là việc đổi tên nước thành Nhật Bản (日本), hoặc đôi khi là Dai Nippon (大日本, Đại Nhật Bản) trong các tài liệu ngoại giao và các biên niên sử. Năm 662, Naka no Oe chính thức lên ngôi vua thay chú và mẹ, trở thành Thiên hoàng Tenji. Hoàng đế Nhật Bản cũng bắt đầu được gọi là Thiên Hoàng kể từ đó. Ngôi vị này nhắm mục đích nâng cao uy thế của gia tộc Yamato và nhấn mạnh nguồn gốc Thần thánh của Hoàng gia với hy vọng giữ Hoàng tộc đứng trên mọi xung đột chính trị. Tuy vậy, trong nội bộ Hoàng tộc, tranh quyền đoạt vị vẫn tiếp diễn khi anh và con trai của Thiên Hoàng tranh giành ngôi báu trong chiến tranh Jinshin. Người anh, sau này lấy niên hiệu là Thiên hoàng Tenmu, củng cố cải cách Tenji và tập trung quyền lực vào trong tay triều đình.

Hệ thống Ritsuryō

Hệ thống ritsuryō được lập thành nhiều mức. , được đặt tên theo nơi đóng đô của triều đình Nhật hoàng Tenji, được hoàn thành năm 668. Những sự hệ thống hóa cao hơn được Nhật hoàng Jito ban bố năm 689 trong , đặt theo tên nơi đặt triều đình của cố Nhật hoàng Tenmu. Hệ thống ritsuryō được củng cố thêm và hệ thống lại năm 701 trong , mà trừ việc thay đổi chút ít và bỏ đi một số chức năng nghi lễ chính yếu, vẫn còn hiệu lực cho đến năm 1868.

Ritsu (Luật) có nguồn gốc từ hệ thống luật Trung Hoa, Ryō (Lệnh) được sắp xếp theo tập tục địa phương. Vài học giả biện luận rằng hệ thống luật này chủ yếu dựa theo mẫu của Trung Quốc.

Luật Taihō có các điều khoản hình sự theo lối Nho giáo (nhẹ hơn so với các hình phạt khắt khe) và tập quyền trung ương kiểu Trung Quốc qua ' (Bộ Lễ), với chức năng coi sóc đạo Shinto và nghi lễ triều đình, và ' (Bộ Công), với tám bộ (để tập trung quyền lực, lễ nghi, sự vụ dân sự, hoàng tộc, pháp lý, quân sự, nhân dân và quốc khố). Mặc dù hệ thống thi cử kiểu Trung Quốc không được áp dụng, được thành lập để đào tạo các quan lại tương lai dựa trên nền tảng Nho giáo cổ điển. Tuy vậy, hệ thống mưu lược cổ điển, ví dụ như dòng dõi quý tộc tiếp tục là tiểu chuẩn chính để lựa chọn các vị trí quan trọng, và tước hiệu sẽ sớm được truyền đời lại. Luật Taihō không đề cập đến việc lựa chọn Quốc Chủ. Vài Nữ hoàng vẫn lên ngôi từ thế kỷ 5 đến 8, nhưng sau năm 770, việc thừa kế chỉ được dành cho đàn ông, thường là cha truyền con nói, mặc dù đôi khi vẫn truyền theo mối quan hệ anh-em hay bác-. Các pháp sư Trung Quốc cũng giữ vai trò quan trọng như các chuyên gia ngôn ngữ học, và hai lần được Nữ Thiên Hoàng Jitō ban thưởng.

Quan hệ đối ngoại

Từ năm 600 đến năm 659, Nhật Bản gửi 7 sứ thần đến nhà Đường ở Trung Quốc. Nhưng trong vòng 32 năm tiếp theo, trong giai đoạn Nhật Bản đang hoàn thành hệ thống luật pháp dựa trên thư tịch Trung Hoa của mình, họ không gửi ai đi. Mặc dù Nhật Bản cắt đứt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, họ đã gửi 11 sứ thần đến Silla, và theo Nihon Shoki thì Silla đã gửi 17 sứ bộ đến Nhật Bản dưới triều Thiên hoàng Tenmu và Nữ Thiên Hoàng Jitō. Gia tộc thống trị Yamato và Baekje có quan hệ thân tình với nhau, và Yamato đã gửi hải quân của mình đến cứu viện Baekje, năm 660-663, chống lại cuộc xâm lăng của Silla và nhà Đường (xem trận Baekgang).

Thay vì chu du đến Trung Quốc, rất nhiều pháp sư từ Tam Quốc Triều Tiên được gửi đến Nhật Bản. Kết quả là, điều này cũng tình cờ thúc đẩy việc Nhật gửi quân cứu viện Baekje. Một vài pháp sư nổi tiếng đến từ Triều Tiên như , , and . Eji, đến từ Goguryeo là thầy giáo của Thánh Đức Thái tử, và cố vấn cho ông về chính trị.

Torai-jin

Những người nhập cư Trung Quốc và Triều Tiên đã trở thành tự nhiên trong xã hội Nhật Bản cổ đại được gọi là . Họ truyền bá nhiều khía cạnh ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của mình cho cư dân bản địa. Người Nhật đối xử tốt với những torai-jin này vì triều đình Yamato đánh giá cao tri thức và văn hóa của họ. Theo ghi chép trong , danh sách tên các gia đình quý tộc được Triều đình Yamato biên soạn năm 815, một phần tư các gia đình quý tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Triều Tiên. 163 trong số 1182 cái tên là từ Trung Quốc, và 154 là từ bán đảo Triều Tiên (104 từ Baekje, 41 từ Goguryeo, và 9 từ Silla và Gaya).

Tuy nhiên, những người nhập cư này nói chung bị coi là thuộc giai tầng thấp hơn trong hệ thống Kabane xếp hạng rất nhiều gia tộc là thành viên của triều đình. Họ thường được xếp vào bậc "Atai", "Miyatsuko", hay "Fubito", trong khi các thành viên của các gia đình thống trị như Soga, Mononobe, và Nakatomi được xếp vào hạng "Omi" hay "Muraji".

Những người nhập cư

Một ví dụ về các gia tộc có tổ tiên ngoài Nhật Bản là gia tộc Yamatonoaya (東漢氏) (_Đông Hán thị’’), là hậu duệ của Hán Linh Đế. Người đứng đầu gia tộc này là Achi-no-Omi (阿智使主) (A Trí Sứ Chủ). Theo Nihongi, dưới triều Nhật hoàng Kimmei, gia tộc Hata (秦氏) (_Tần Thị’’), hậu duệ của Tần Thủy Hoàng, đã mang đến nghề nuôi tằm dệt vải. Gia tộc Kawachino-Fumi clan (西文氏) (Tây Văn Thị), là hậu duệ của Hán Cao Tổ, dạy cho triều đình Yamato văn tự Trung Hoa, theo Shinsen-shōjiroku. Gia tộc Takamoku là hậu duệ của Tào Phi. là một thành viên chủ chốt đã viết nên Cải cách Taika. , cũng đến từ Trung Quốc, là một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất thời Asuka.

Năm 660, một trong Tam Quốc Triều Tiên, Baekje, mất về tay Silla và nhà Đường. Sau đó, rất nhiều nạn dân Baekje đã chạy loạn đến Nhật Bản. Triều đình Yamato đã đón nhận hoàng tộc và nạn dân Baekje. Hoàng gia Baekje được Nhật hoàng ban cho cái tên "Kudara no Konikishi" (百済王, Bách Tề Vương).

Truyền bá Phật giáo

truyền vào Nhật Bản được cho là nhờ vua Baekje Seong năm 538, đặt nước Nhật trước một thể thức học thuyết tôn giáo này. Gia tộc Soga, một gia đình trong triều đình Nhật nổi lên từ khi Nhật hoàng Kimmei lên ngôi khoảng năm 531, rất chuộng việc chấp nhận Phật giáo và kiểu mẫu văn hóa và chính quyền dựa trên Nho giáo Trung Hoa. Nhưng có những người ở triều đình Yamato – ví dụ như gia tộc Nakatomi, những người có trách nhiệm điều hành các nghi lễ Shinto ở triều đình, và gia tộc Mononobe nắm binh quyền – bắt đầu cố gắng duy trì đặc quyền của mình và chống lại ảnh hưởng của một tôn giáo ngoại lai như Phật giáo. Nhà Soag du nhập vào hệ thống tài khóa kiểu Trung Hoa, thành lập cơ quan ngân khố đầu tiên, và coi các vương triều ở Triều Tiên là các bạn hàng thương mại thay vì đối tượng để mở rộng lãnh thổ. Sự gay gắt tiếp diễn giữa nhà Soga và hai nhà Nakatomi và Mononobe kéo dài hơn một thế kỷ, trong suốt thời kỳ đó nhà Soga tạm thời chiếm ưu thế. Trong Cải cách Taika, Chỉ dụ về việc đơn giản hóa việc chôn cất được ban bố, và việc xây dựng các kofun (cổ phần) bị cấm. Chỉ dụ cũng quy định kích cỡ và hình khối của kofun theo đẳng cấp.

Nghệ thuật tượng Phật Nhật Bản được cho là phỏng theo kiểu cách thời Lục Quốc ở Trung Hoa. Phong cách của tượng phật thời kỳ này được gọi là phong cách Tori, được lấy từ tên nhà điêu khắc nổi tiếng Kuratsukuri Tori, cháu nội của một người nhập cư Trung Hoa Shiba Tatto. Một vài kiểu mẫu tiêu biểu của phong cách này bao gồm mắt rõ ràng, hình quả hạnh, và các nếp gấp được sắp xếp đối xứng trên trang phục. Đặc điểm nhận dạng rõ rệt nhất của các bức tượng này là việc thể hiện nụ cười được gọi là Nụ cười Cổ xưa. Kudara Kanon ở Hōryū-ji là bức tượng Phật nổi tiếng nhất của thời kỳ này.

Văn hóa Hakuhō

Giai đoạn thứ hai của nghệ thuật Phật giáo, tiếp nối thời kỳ nghệ thuật Asuka, được gọi là Văn hóa Hakuhō (Bạch Phượng Văn hóa) (白鳳文化) và bắt đầu từ Cải cách Taika cho đến ngày dời đô khỏi Nara năm 710. Trong suốt nửa sau thế kỷ 8, hàng loạt các bài hát và bài thơ được soạn và biểu diễn bởi người từ nhiều đẳng cấp khác nhau, từ chiến binh đến Thiên hoàng. Tập thơ sớm nhất được biết đến là Man'yōshū. Nó bao gồm tác phẩm của vài nhà thơ đáng chú ý như Công chúa Nukata và Kakinomoto Hitomaro. Waka (Hòa Ca) cũng xuất hiện như một thể thơ mới trong thời kỳ này. Nó được hình như một thuật ngữ để phân biệt lối thơ dân tộc với lối thơ từ Trung Hoa; dưới ảnh hưởng của thể thơ waka, một thể thơ được yêu thích hơn ra đời với cái tanka. Nó bao gồm 31 chữ chia thành 5 dòng, theo mẫu 5/7/5/7/7.

Các sự kiện

538: Vương quốc Triều Tiên Baekje gửi đi một đoàn sứ thần để giới thiệu Phật giáo cho Thiên Hoàng Nhật Bản. 592: Giới thiệu Phật giáo đến triều đình, theo Nihon Shoki 593: Thái tử Shotoku giữ trọng trách Nhiếp chính cho nữ Thiên hoàng Suiko và truyền bá Phật giáo cùng với gia tộc Soga. 600: Yamato gửi đoàn sứ bộ đầu tiên đến Trung Quốc kể từ năm 478. 604: Thái tử Shotoku ban hành Thập thất điều Hiến pháp (十七条憲法) (Jūshichijō kenpō) theo phong cách Trung Hoa, dựa trên nguyên tắc Nho giáo, thực chất điều này đã khởi đầu Đế chế Nhật Bản. 607: Thái tử Shotoku xây dựng Chùa Hōryūji ở Ikaruga. 645: Soga no Iruka và cha ông là Emishi bị giết trong biến cố Ất Tị. Thiên hoàng Kōtoku lên ngôi và củng cố hoàng quyền qua các gia đình quý tộc (xem Cải cách Taika), chia cả nước thành các tỉnh. 663: Thủy quân Nhật Bản bị liên minh Đường-Silla đánh bại trong trận Baekgang, không phục hồi được Baekje. 670: Koseki (Hộ Tịch) (sổ đăng ký gia đình) (Kōgo-Nenjaku) được soạn thảo. 672: Hoàng tử Ōama, sau này là Thiên hoàng Tenmu chiếm đoạt ngai vàng qua một cuộc nội chiến (Jinshin no Ran) chống lại Thiên hoàng Kōbun. *689: Luật Asuka Kiyomihara được ban bố.

  • 694: Thủ đô đế quốc được chuyển đến Fujiwara-kyō, thành phố Kashihara ngày nay. 701: Luật Taihō được ban bố. 705: Nishiyama Onsen Keiunkan được thành lập. Nó đã trở thành khách sạn lâu đời nhất được biết đến vẫn còn hoạt động, kể từ năm 2019. *708: đã được đúc.
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 538 đến năm 710, mặc dù giai đoạn khởi đầu của thời kỳ này có thể trùng với giai đoạn cuối của
Nhà nước Yamato. là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ khoảng thế kỷ 4 đến thế kỷ 7. Đây là thời kỳ tiếp sau thời kỳ Yayoi và trước thời
**Thời kỳ Kofun** (Kanji: 古墳時代, Rōmaji: _Kofun jidai_, phiên âm Hán-Việt: _Cổ Phần thời đại_) là một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ khoảng năm 250 đến năm 538. Từ kofun
**Gia tộc Nakatomi** (中臣氏 _Nakatomi-uji_, ‘’Trung Thần thị’’) là một gia tộc thế lực tại Nhật Bản cổ. Nhà Nakatomi là một trong hai gia tộc pháp sư chủ trì các buổi tế lễ quan
là một chính trị gia và nhà ngoại giao Nhật Bản vào cuối thế kỷ 6 và đầu thế kỷ 7, trong thời kỳ Asuka. Ono được Thiên hoàng Suiko cử làm sứ thần chính
nhỏ|Các khu vực trong thế kỷ thứ 8 (xem bên dưới để biết các tỉnh hiện đại của Nhật Bản). là danh xưng tổ chức hành chính Nhật Bản dưới thời kỳ Asuka, là một
là một thuật ngữ tiếng Nhật dùng để chỉ các gia đình mạnh mẽ và giàu có. Trong bối cảnh lịch sử, nó thường đề cập đến các gia tộc samurai địa phương nắm giữ
đây là một cuộc chính biến xảy ra trong thời kỳ Asuka. Cuộc chính biến còn được gọi là **Biến Đinh Mùi** (丁未の変, teibi no hen), **Sự kiện Đinh Mùi** (丁未の役, teibi no yaku), **Biến
là con trai của Soga no Emishi, và là một chính khách nổi tiếng vào thời kỳ Asuka của Nhật Bản. Ông nổi tiếng vì bị ám sát trong một cuộc đảo chính liên quan
Chùa Hōryū , tên chính thức là là một ngôi chùa Phật giáo ở Ikaruga, tỉnh Nara, Nhật Bản, là một phần của Quần thể kiến trúc Phật giáo khu vực chùa Hōryū. ## Lịch
thumb|Cổ Sự Ký của Chân Phước Tự, Hashima, Gifu hay **Furukoto Fumi** là ghi chép biên niên cổ nhất còn sót lại của Nhật Bản. ‘’Cổ sự ký’’ được Ō no Yasumaro viết vào thế
right|nhỏ|Bản đồ chiến tranh Jinshin là cuộc nội chiến lớn nhất ở Nhật Bản thời kỳ cổ đại, diễn ra từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 23 tháng 7, năm Thiên hoàng Thiên Vũ
lấy tên sự kiện xảy ra năm Ất Tỵ, năm 645, trong thời kỳ Cải cách Taika, là một sự kiện quan trọng đã thay đổi lịch sử Nhật Bản. Biến cố này là kế
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Vương quyền Yamato** (tiếng Nhật: ヤマト王権) là tổ chức chính trị, quyền lực chính trị được hình thành trên cơ sở liên minh giữa một số thị tộc có thế lực, đã nắm ngôi vua
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Vạn diệp tập** (tiếng Nhật: 万葉集 _Man'yōshū_) - với nghĩa khái quát có thể được hiểu là "tập thơ lưu truyền vạn đời", "tuyển tập hàng vạn bài thơ", "tập thơ vạn trang", "tập thơ
là một hệ thống chữ viết cổ sử dụng kanji (Hán tự) để diễn đạt tiếng Nhật. Hiện chưa rõ chính xác hệ thống chữ viết này được bắt đầu sử dụng vào thời gian
là thiên hoàng thứ 35 và là - thiên hoàng thứ 37 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Bà là vị Thiên hoàng đầu tiên hai lần ở ngôi ở 2
là một tước hiệu quý tộc cổ xưa trong hệ thống _kabane_ ở thời kỳ Yamato tại Nhật Bản từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6, trước khi ra đời thể chế
phải|Nội cung , nằm ở thành phố Ise, tỉnh Mie, Nhật Bản, là một Thần xã (đền thờ Thần đạo) thờ phụng Amaterasu-Ōmikami (Thiên Chiếu đại ngự thần). Thần cung Ise là một quần thể
là một công chúa trong thời kỳ Asuka,và là em họ, sau là Hoàng hậu của Thiên hoàng Kōbun. Tên của bà, Tochi có nguồn gốc từ huyện Tochi, một địa điểm nằm một vài
Ngày 01/6/2024, tại khách sạn Mường Thanh Luxury Cần Thơ sẽ diễn ra sự kiện tọa đàm với nội dung xoay quanh thông tin về thị trường bất động sản Châu Đốc thời kỳ mới.Thư
là vị Thiên hoàng thứ 38 của Nhật Bản theo danh sách thiên hoàng truyền thống. Thời đại của ông bắt đầu từ năm 668 đến khi ông qua đời vào năm 672, nhưng trên
là một nhà quý tộc và nhà ngoại giao Nhật Bản cuối thời Asuka và đầu thời Nara. ## Tiểu sử Mahito được sinh ra trong nhà Awata, xuất thân từ và và quê quán
, là con trai thứ hai của Thiên hoàng Yomei (用明, _Dụng Minh_). Ông là một nhà chính trị, nhà cải cách, nhân vật Phật giáo lừng danh trong lịch sử Nhật Bản. Theo Sakaiya
là một đô vật chuyên nghiệp người Nhật, được biết đến với cái tên . Cô hiện đang ký hợp đồng với WWE, biểu diễn trên Raw với biệt danh **"The Empress Of Tomorrow"**. Cô
**Fujiwara no Kamatari** ̣̣̣̣̣̣(Đằng Nguyên Liêm Túc) (藤原 鎌 足, 614 - 14 tháng 11, 669) là một chính khách nổi tiếng của Nhật Bản trong thời kỳ Asuka (538–710). Ông là người sáng lập
là một tarento, người mẫu và cựu nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. * Trong hồ sơ tại thời điểm cô hoạt động với tư cách nữ diễn viên khiêu dâm, cô đến
là một tập hợp các quy tắc quản lí được biên soạn và ban hành vào năm 689, một trong những bộ luật đầu tiên ở Nhật Bản thời phong kiến (nếu không phải bộ
là một vị tướng Nhật Bản nổi danh trong thời kỳ Asuka. ## Tiểu sử Các sự kiện trong cuộc đời ông được kể đến trong _Nihon Shoki_ (Nhật Bản thư kỷ) và _Kojiki_ (Cổ
là một nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản trong Thời kỳ Asuka. Bà là con gái của Hoàng tử Kagami và được cho là em gái của Công chúa Kagami. Công chúa Nukata trở
là một nhân vật quyền lực của triều đình Nhật Bản sống vào thời kỳ Asuka và Nara. Ông là con trai thứ hai của Fujiwara no Kamatari (có giả thuyết cho rằng ông là
thumb|upright=1.5|_[[Ki no Tomonori_ bởi Kanō Tan'yū, 1648]] thumb|upright=1.5|_Bức tranh [[Quý bà Ise_ bởi Kanō Tan'yū, 1648.]] right|thumb|upright=1.5|_[[Kiyohara no Motosuke_ bởi Kanō Yasunobu, 1648]] right|thumb|upright=1.5|_[[Fujiwara no Kiyotada_ bởi Kanō Naonobu, 1648]] (Tam thập lục ca tiên)
là vị Hoàng đế thứ 29 của Nhật Bản theo Danh sách Nhật hoàng. Triều đại của ông kéo dài từ năm 539 đến năm 571, là triều đầu tiên mà lịch sử đương đại
là vị Thiên hoàng thứ 30 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại của ông kéo dài từ năm 572 đến năm 585, tổng cộng 13 năm. Tước hiệu khi
là Thiên hoàng thứ 33 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, đồng thời là Nữ hoàng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản có thể khảo chứng được. Triều đại của
là một cuộc cải tổ hành chính ban hành vào năm 703 tại Nhật Bản cuối thời Phi Điểu. Về mặt lịch sử, bộ luật này là một trong các , biên soạn dưới sự
là Thiên hoàng thứ 34 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại của ông kéo dài từ năm 629 đến năm 641, tổng cộng 12 năm. ## Trị vì Trước
là cuộc cải cách trong lịch sử Nhật Bản, do Thiên hoàng Kōtoku (孝徳天皇, _Kōtoku-tennō_) đề xướng năm 645. Từ cuộc cải cách của vua Kōtoku, Nhật Bản từng bước chuyển hoá thành một nhà
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
Phúc An Asuka – Khu đô thị sinh thái lớn nhất Thành phố Châu Đốc do Trần Anh Group triển khai tạo ấn tượng mạnh với nhiều điểm nổi bật & nhận nhiều sự quan
**JS _Asuka_ (ASE-6102)** (tiếng Nhật: あすか) là một tàu thử nghiệm thuộc Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tàu được chế tạo bởi Sumitomo Heavy Industries ở Tokyo, hạ thủy vào ngày 21
Sáng 31/8, lễ ra quân dự án Phúc An Asuka đã chính thức diễn ra tại TP. Châu Đốc, với chủ đề “Thổi bùng bản sắc Nhật”. Sự kiện thu hút hơn 500 chuyên viên
Vừa qua, Công ty CP KD BĐS Trần Anh Châu Đốc (thành viên Trần Anh Group) cùng Công ty CP Đầu tư và Kinh doanh BĐS Song Vi Group Miền Tây (Song Vi Group Miền
Sáng nay, tại TP.Châu Đốc (An Giang), lễ ra quân dự án Phúc An Asuka với chủ đề “Nhắm chắc mục tiêu – Bứt phá hồng tâm” đã diễn ra, quy tụ hơn 200 chuyên
Là khu đô thị phong cách Nhật lần đầu xuất hiện tại thành phố Châu Đốc, Phúc An Asuka đã tạo nên một khái niệm hoàn toàn mới về cuộc sống. Thiết lập không gian
Câu lạc bộ Yoga là một không gian thư giãn và cân bằng dành cho những ai muốn cải thiện sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần. Tại đây, các thành viên có
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ