✨Thời bao cấp
Một căn phòng với những vật dụng tiêu biểu của thời bao cấp
Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho khối kinh tế tập thể và kinh tế do nhà nước chỉ huy. Mặc dù kinh tế chỉ huy đã tồn tại ở miền Bắc thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986 trên toàn quốc, tức là trước Đổi Mới.
Trong nền kinh tế kế hoạch, phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế việc người dân tự mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước độc quyền phân phối hầu hết các loại hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số lượng và mặt hàng được phép mua.
Kinh tế
nhỏ|phải|Những đôi dép cao su làm từ lốp xe ô tô cũ như thế này đã được sử dụng phổ biến trong thời chiến tranh và thời bao cấp|337x337px
Cơ chế quản lý kinh tế
Trước Đổi Mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
- Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định của cơ quan hành chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
- Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
- Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
Trong 10 năm bao cấp, Việt Nam thực hiện hai kế hoạch: 5 năm lần thứ II (1976-1980) và 5 năm lần thứ III (1981-1985). Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, nhà nước Việt Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu. Nhà nước xem thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản dẫn đến không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng vì Việt Nam sao chép mô hình kinh tế kế hoạch của Liên Xô mà không thật sự hiểu rõ ưu điểm và nhược điểm của mô hình này, không đủ năng lực quản lý kinh tế để phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hiểu đơn giản xây dựng chủ nghĩa xã hội là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sau đó phát triển kinh tế theo kế hoạch. Chính tư duy đơn giản đó dẫn họ đến thất bại. Hơn nữa nội lực của Việt Nam quá yếu nên mô hình kinh tế kế hoạch hóa cũng không thể nào phát huy được tác dụng tập trung nội lực để đầu tư phát triển. Sự chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội, yếu kém và lạc hậu về lý luận, nhận thức sai và làm sai lý luận, thoát ly cả lý luận và thực tiễn muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu; cường điệu ý chí, nhiệt tình cách mạng; coi thường các quy luật kinh tế, tri thức khoa học, lợi ích người lao động; đề ra những mục tiêu, kế hoạch quá cao không phù hợp thực tiễn đã đưa nền kinh tế, xã hội Việt Nam vào tình trạng khủng hoảng.
Các hình thức bao cấp
Bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa
Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Công nhân lao động nặng được cấp 20 kg gạo mỗi tháng, trong khi cán bộ công chức chỉ được có 13 kg. Do gạo ít nên thường ăn độn thêm ngô, khoai, sắn, bo bo, phần gạo do trung ương cấp còn phần độn do địa phương phụ trách tăng gia thêm vào, như 13 kg gạo thì có 10 kg là độn khoai, sắn...Cho dù có tiền, hàng hóa rất khan hiếm, mà dù có tem phiếu người mua có thể sắp hàng vào mua nhưng đến lượt mình thì không còn hàng, đành về tay không. Hàng hóa thì ngoài phẩm chất kém, lượng hàng rất hạn chế, chỉ đủ dùng một thời gian ngắn, đến cuối tháng thì đã cạn kiệt, phải mua ở chợ đen.
Người ngoại quốc ở Việt Nam thì có quyền mua sắm một số mặt hàng ở cửa hiệu quốc doanh riêng biệt như Intershop ở Hà Nội, cung cấp một số mặt hàng đặc biệt như đồ hộp, rượu vang.
Nguồn thức ăn độn thêm chủ yếu từ Liên Xô, Ấn Độ cùng một số nước khác từng viện trợ. Ngoài ra cũng có một số thực hiện theo nghị định thư hàng đổi hàng. Bên cạnh đó, Việt Nam mượn 300.000 tấn lúa mì của Ấn Độ tuy nhiên do năng lực xay xát của Việt Nam cũng không thể làm bột kịp phải thương thuyết nhờ Ấn Độ xay xát giúp. Việt Nam nhận 70% lượng bột, phần còn lại xem như khấu hao xay xát và trả công cho họ cũng như Indonesia đồng ý bán nợ cho Việt Nam 200.000 tấn gạo. Bộ Lương thực nhờ ông Jean-Baptiste Doumeng - giám đốc Công ty Ipitrade, thành viên Đảng Cộng sản Pháp thân thiện với Việt Nam giúp đỡ tìm kiếm nguồn cung cấp rồi mua bằng tiền mặt 500.000 tấn gạo của Thái Lan để bán nợ lại cho Việt Nam.
Ngoài hàng tiêu dùng, dưới thời bao cấp nhà nước còn nắm cả việc phân phối nhà cửa. Tiêu chuẩn là mỗi người được 4 mét vuông. Đời sống trong những khu tập thể này càng tồi tệ với việc chăn nuôi gia súc trong những căn hộ chật hẹp, mất vệ sinh. Đây cũng là một khía cạnh của thời bao cấp trong thành phố. Giá nhà ở các thành phố tương đối rẻ, nhưng công nhân viên chức vẫn không mua nổi vì thu nhập quá thấp.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu
nhỏ|trái|Tem phiếu thời bao cấp Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu áp dụng sổ gạo vào khoảng năm 1960, lúc đầu là lương thực, sau thêm tem phiếu cho tất cả càng mặt hàng nhu yếu. Trọng tâm của thời bao cấp là tem phiếu quy định loại hàng và số lượng người dân được phép mua, chiếu theo một số tiêu chuẩn như cấp bậc và niên hạn. Có diện được ưu đãi, cho phép ưu tiên mua dùng; diện khác thì không. Ví dụ như thịt lợn, người dân thường chỉ được mua 1,5 kg/tháng nhưng cán bộ cao cấp có quyền mua 6 kg/tháng.
Tùy thuộc vào vị trí công việc, đặc thù nghề nghiệp mà cán bộ, công chức nhà nước cũng như người dân lao động được phát tem phiếu mua lương thực, thực phẩm với chế độ riêng.
Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ trưởng; thứ trưởng phiếu B; trưởng các cục, vụ, viện được hưởng phiếu C và có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông Đản, Nhà thờ, Vân Hồ (Hà Nội)... Lúc bấy giờ dân gian có câu Tông Đản là của vua quan/ Nhà thờ là của trung gian nịnh thần/ Đồng Xuân là của thương nhân/ Vỉa hè là của nhân dân anh hùng.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
Không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho".
Vai trò của tiền tệ
Dưới thời bao cấp, do thiếu hàng hóa nên việc phân phối hàng hóa chủ yếu dựa vào hệ thống tem phiếu. Thị trường chợ đen vẫn tồn tại nhưng không phải kênh phân phối hàng hóa chính. Mua hàng gì thì có tem phiếu hàng đó. Một phần tiêu biểu của thời kỳ bao cấp là đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Lương công nhân đôi khi cũng được trả bằng hiện vật vì giá trị đồng tiền cứ sụt dần. Nếu lấy đồng lương năm 1978 làm chuẩn thì số tiền đó năm 1980 chỉ là 51,1%. Đến năm 1984 thì còn 32,7%.
Thị trường tự do bị xem là bất hợp pháp và bị hạn chế nên hàng hóa lưu thông trên thị trường chợ đen ít và giá rất cao. Người dân, cán bộ công nhân viên thường bán hàng tiêu dùng mà họ không sử dụng ra thị trường chợ đen.
Nông nghiệp
Sau năm 1975, với tiêu chuẩn phân phối trung bình 9 kg gạo/người/tháng thì 4 triệu dân thành thị mỗi năm phải cần 530.000 tấn gạo. Nhưng số lượng này không được đảm bảo khi Nhà nước chỉ có thể huy động nổi hơn 1 triệu tấn mỗi năm trên toàn quốc trong khi số gạo đó phải dùng để nuôi một quân đội thường trực lớn và phân phối cho dân thành thị. Chính vì thế nhà nước chỉ có thể cung cấp cho người dân thành thị một lượng lương thực và thực phẩm tối thiểu vừa đủ để họ duy trì cuộc sống. Trong thời bao cấp xảy ra một nghịch lý người dân thành thị có khẩu phần ăn còn kém chất lượng hơn người dân nông thôn trong khi ở các quốc gia khác thành thị luôn có mức sống cao hơn nông thôn.
Giai đoạn 1976-1980
Sau khi Việt Nam thống nhất, nông nghiệp ở miền Bắc đã được hợp tác hóa, đa số nông dân đã gia nhập các hợp tác xã còn ở miền Nam phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh nhưng không bền vững. Năm 1976, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 43 có nội dung "Xóa bỏ bóc lột ở nông thôn, đưa nông dân đi vào con đường hợp tác hóa nông nghiệp, tiến lên chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động". Sau khi chỉ thị này được ban hành, phong trào thành lập hợp tác xã nông nghiệp tại nông thôn được triển khai trên toàn miền Nam Việt Nam. Phần lớn nông dân được đưa vào các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Đến năm 1978, Hội đồng Chính phủ có quyết định về việc "xóa bỏ triệt để các hình thức bóc lột tư bản chủ nghĩa về ruộng đất và xúc tiến điều chỉnh ruộng đất ở nông thôn miền Nam" theo đó hộ nông dân nào có trên 0,5 ha sẽ bị nhà nước trưng mua với giá bằng hai năm giá trị sản lượng thường niên của vụ chính trên diện tích trưng mua. Sau khi bị trưng mua ruộng đất hộ nông dân có thể tham gia hợp tác xã. Các hộ nông dân không có ruộng có thể được cấp ruộng ở mức không quá 3000 m2/người, sau đó những người nhận đất được vận động vào hợp tác xã. Đến cuối năm 1979, ở Nam Trung Bộ có 91,6% số hộ nông dân vào hợp tác xã; ở Nam Bộ có 13246 tập đoàn sản xuất, trong đó có trên 4000 tập đoàn sản xuất khó khăn và dần tan rã. Nhà nước cũng tập thể hóa các loại máy cày, máy kéo dưới 26 mã lực, tổ chức thành các đội công cụ cơ giới trong hợp tác xã; những loại máy có công suất 26 mã lực trở lên được tổ chức thành tập đoàn máy nông nghiệp do Ủy ban Nhân dân huyện quản lý, quyền sở hữu máy thuộc tập thể và tổ viên được trả công theo lao động. Nhà nước còn tổ chức khai hoang được gọi là "mở vùng kinh tế mới" với sự tham gia của nhân dân và quân đội. Nhà nước Việt Nam vận động 1,5 triệu người dân thành thị đi xây dựng các vùng kinh tế mới nhằm giảm áp lực dân số tại các đô thị.
Tuy có nhiều cố gắng nhưng giai đoạn này đã không đạt được các chỉ tiêu đã đề ra. Sản lượng lúa năm 1976 đạt 11,827 triệu tấn, giảm dần đến năm 1978 chỉ còn 9,79 triệu tấn. Năm 1976, sản lượng lúa bình quân trên một người dân là 211 kg thì đến năm 1980 chỉ còn 157 kg. Kế hoạch năm năm 1976-1980 nâng tổng sản lượng lúa lên gần gấp đôi vào khoảng 21 triệu tấn, nhưng đến năm 1980 chỉ đạt 14,4 triệu tấn, tức đạt 68,5% kế hoạch. Còn sản lượng của cả vựa lúa miền Nam từ mức 1,9 triệu tấn năm 1976 cứ tụt dần xuống còn 0,99 triệu tấn năm 1977 và 0,64 triệu tấn năm 1979. Chăn nuôi heo đạt 58,5% kế hoạch, thủy sản đạt gần 40%, khai thác gỗ tròn đạt 45%, trồng rừng đạt 48%. Việt Nam đứng bên bờ vực của nạn đói và sẽ chết đói nếu mất mùa trên diện rộng.
Giai đoạn 1981-1985
Đến cuối năm 1985, Nam Bộ đã xây dựng được 363 hợp tác xã và 36.220 tập đoàn sản xuất, thu hút 74% hộ nông dân Cuối thập niên 1970, nông nghiệp Việt Nam sa sút nghiêm trọng: năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi giảm, sản xuất không đủ tiêu dùng. Thu nhập và đời sống nông dân giảm sút. Trước tình hình nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu lương thực của quốc gia, từ những thí điểm hình thức khoán trong nông nghiệp ở Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nghệ Tĩnh năm 1981 Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chỉ thị 100-CT/TW - mở rộng hình thức khoán trong nông nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp, tạo đà cho phát triển và đem lại hiệu quả rõ rệt, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Năm 1985 đạt 18,2 triệu tấn lương thực. Nhà nước vận động 1,3 triệu người dân thành thị đi xây dựng các vùng kinh tế mới Năm 1992-1993, hệ thống 11 năm phổ thông của miền Bắc được thay đổi từ 11 năm sang 12 năm (thêm lớp 9). Từ đó đến nay toàn bộ hệ thống là 12 năm thống nhất cả nước. Cuộc cải cách giáo dục bắt đầu từ năm 1981: Hệ thống giáo dục chuyển từ 10 năm sang 12 năm (bỏ lớp vỡ lòng), kéo theo sự đổi mới chương trình sách giáo khoa và cải tiến chữ viết. Do dư luận xã hội phản ứng mạnh, ngành giáo dục dần quay lại chữ viết cũ. Do tinh thần chỉ đạo hệ thống giáo dục Việt Nam phải bắt kịp trình độ Liên Xô và các nước Đông Âu, khiến chương trình giảng dạy của cuộc cải cách giáo dục năm 1981 bị chính các nhà trường kêu quá tải. Với ý nghĩa nội dung bao giờ cũng quyết định phương pháp, nếu sách giáo khoa bị quá tải thì không có một phương pháp nào ngoài phương pháp truyền thụ một chiều cho kịp với nội dung sách giáo khoa. Ngoại ngữ chủ yếu là tiếng Nga, còn tiếng Anh một thời bỏ, đến 1985 lại được cho học.
Y tế
Thời bao cấp, người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang hóa đơn về cơ quan hay bệnh viện thanh toán mà không mất tiền, song điều kiện chữa trị vô cùng thiếu thốn. Bao cấp nhưng trong bối cảnh Nhà nước thiếu kinh phí, sản xuất không phát triển nên bệnh viện gặp vô vàn khó khăn. Các loại thuốc men, trang thiết bị y tế… chủ yếu được viện trợ. Bộ Y tế có cả Vụ kế hoạch, Cục Vật tư làm nhiệm vụ phân chỉ tiêu cho các bệnh viện. Ví dụ: Bệnh viện Bạch Mai một năm được cấp bao nhiêu chiếu, chăn, đường, sữa, xăng dầu, thuốc men… Các bệnh viện thời bao cấp có quy mô nhỏ, chủ yếu kiểu nhà một tầng đến ba tầng. Thuốc men, thiết bị y tế không đủ đáp ứng nhu cầu một phần nhập khẩu, một phần được viện trợ từ các nước cộng sản.
Trì trệ và Đổi mới
Trì trệ
Trước năm 1975, mỗi năm Kinh tế Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng khoảng 200 triệu USD. Sau ngày thống nhất không lâu, Mỹ bao vây cấm vận, đặc biệt là tại miền Nam, các nhà xưởng vốn đã sử dụng phương tiện, máy móc sản xuất của Mỹ và phương Tây nên không có phụ tùng để tiếp tục hoạt động. Quy mô viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm đi nhanh chóng, Liên Xô và Đông Âu dù vẫn còn giúp đỡ vài năm nữa, nhưng do trượt giá đồng tiền của họ nên lượng hàng hóa, nguyên liệu thực về nước chỉ còn phân nửa trước đây. Tất cả đã tác động rất mạnh vào nền kinh tế của đất nước. Quy mô xuất khẩu của miền Bắc (than, thiếc, đồ thủ công…) lúc này chỉ độ 200 triệu rúp mỗi năm. Lúc đó, trao đổi thương mại chủ yếu là với các nước trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Nhà nước độc quyền. Do bị Mỹ cấm vận kinh tế nên quan hệ mậu dịch với bên ngoài bị hạn chế (Liên Xô và Đông Âu lúc đó cũng gặp khó khăn).
Nhà nước chú trọng phát triển công nghiệp nặng để xây dựng nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong khi công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức nên lãng phí rất lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan hiếm. Hệ quả là công nghiệp nặng không phát triển như mong muốn để trở thành đòn bẩy cho nền kinh tế, một số sản phẩm công nghiệp nặng không có nơi tiêu thụ, nhà máy hoạt động không hết công suất còn công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Chính sách chú trọng cào bằng và xây dựng các địa phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ cùng việc ngăn cấm thị trường tự do dẫn đến hàng hóa không thể lưu thông trong khi đó hệ thống thương nghiệp quốc doanh không đáp ứng nổi nhu cầu phân phối hàng hóa của nền kinh tế. Việc biến các địa phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ cũng khiến nhà nước không thể liên kết các địa phương với nhau, phối hợp thế mạnh của các địa phương vào kế hoạch chung của quốc gia và tập trung các nguồn lực cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà nước chú trọng bảo đảm việc làm, nhưng lại vượt quá khả năng kinh tế, vì thế về sau phải có chính sách xuất khẩu lao động đi Đông Âu. Năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế rất thấp. Hiệu quả sử dụng vốn thấp. Nhiều chỉ tiêu bình quân đầu người năm 1985 vẫn thấp hơn năm 1976. Thu nhập quốc dân hàng năm tăng 3,7% trong khi dân số tăng 2,3%, tức là thu nhập bình quân đầu người chỉ tăng 1,4% mỗi năm. Nền kinh tế không đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước, thu nhập hàng năm chỉ đáp ứng được 80-90% nhu cầu còn lại phải dựa vào viện trợ và vốn vay nước ngoài.
Việt Nam không có khả năng tiết kiệm do thu nhập quá thấp nên thiếu vốn để phát triển sản xuất. Đầu tư phát triển hoàn toàn dựa vào vốn vay và vốn viện trợ. Thu chi ngân sách phải dựa vào vốn vay và viện trợ nước ngoài. Trong giai đoạn 1976-1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm đến 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng thu trong nước, 37,3% tổng chi ngân sách. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% phải bù đắp bằng phát hành giấy bạc dẫn đến siêu lạm phát vào năm 1986 với tốc độ tăng giá 774,7%. Nhiều người gửi tiền tiết kiệm lâm vào cảnh bi đát do lạm phát phi mã xảy ra sau khi đổi tiền. Có người bán một con bò lấy tiền gửi tiết kiệm, sau khi đổi tiền chỉ mua được vài con gà. Việc ngăn cấm thị trường tự do khiến tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trở nên nặng nề. Có câu chuyện kể về mẹ già mang 5–10 kg gạo đi thăm con ở tỉnh khác, khi đến ranh giới tỉnh bị tịch thu, khóc lóc, van xin cũng không được. Những phiên chợ quê, khi đội quản lý thị trường đeo băng đỏ đến tịch thu thịt lợn do tư nhân mổ chui bán, chính những người dân quanh đó lại bảo vệ người bán thịt lợn, không ủng hộ đội quản lý thị trường của nhà nước. Thị trường thực phẩm, hàng tiêu dùng bị ngăn cấm trong khi nhà nước chỉ phân phối tem phiếu thịt giá thấp riêng cho cán bộ, công nhân viên (số lượng thật ra rất ít, khoảng 0,3-0,5 kg/người/tháng) và người dân ở thành phố (mỗi người 0,1 kg/tháng). Điều này khiến tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng kéo dài triền miên, và vật giá trên thị trường chợ đen tăng mạnh. Chất lượng sống của nhân dân đi xuống khiến sự bất mãn trong xã hội tăng lên, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam sa sút. Gần một triệu người vượt biên ra nước ngoài (chủ yếu là người Hoa) do ảnh hưởng bởi chiến tranh biên giới cũng như để tìm kiếm cơ hội kinh tế tốt hơn đã tạo ra một cuộc khủng hoảng lớn thu hút sự chú ý của dư luận thế giới lúc đó.
Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh: "Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất về kinh tế trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)"
Tại các nước áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch thành công nhất như Liên Xô, trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng dựa vào lao động và vốn thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Đặc biệt trong hoàn cảnh chiến tranh thì nó cho phép đất nước tập trung mọi nguồn lực cho quân đội và quốc phòng. Nhưng trong thời bình thì nó lại triệt tiêu nhu cầu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, không tạo được động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Vì vậy Liên Xô trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh nhất dưới sự lãnh đạo của Stalin đã phải áp dụng kỷ luật lao động cứng rắn (bao gồm cả hình phạt tù hoặc đưa đến các trại lao động cải tạo đối với người lao động tự ý nghỉ việc) đi kèm với các biện pháp động viên khen thưởng để chống lại tình trạng trì trệ, thiếu trách nhiệm của cán bộ quản lý đồng thời thúc đẩy tăng năng suất lao động. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong đó có Việt Nam, lâm vào tình trạng trì trệ.
Đổi mới
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Việt Nam đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (năm 1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định số 25 - CP và Nghị định số 26 - CP của Chinh phủ... Đó là những căn cứ thực tế để Đảng Cộng sản Việt Nam đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng, và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội". Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.