✨Thế Pleistocen

Thế Pleistocen

Thế Pleistocen (phiên âm tiêng Việt: Pleixtôxen), còn gọi là thế Canh Tân hay thế Cánh Tân (), là một thế địa chất từng được tính từ khoảng 1,806 Ma tới 11,55 Ka BP (Ma/Ka BP: Mega/Kilo annum before present, triệu/ngàn năm trước). Tuy nhiên kể từ ngày 30 tháng 6 năm 2009, Liên hiệp Khoa học Địa chất Quốc tế IUGS đã phê chuẩn đề nghị của Ủy ban Địa tầng Quốc tế ICS về việc kéo lùi thời điểm bắt đầu của thế này về 2,588±0,005 Ma để bao gồm cả tầng Gelasia.

Thế Pleistocen là thế được tạo ra có chủ định để bao trùm thời kỳ gần đây nhất của các chu kỳ băng giá lặp đi lặp lại. Tên gọi pleistocen có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp πλεῖστος (pleistos "nhất, hơn cả") và καινός (kainos "mới").

Thế Pleistocen diễn ra sau thế Pliocen và ngay sau nó là thế Holocen. Thế Pleistocen là thế thứ ba trong kỷ Neogen hay thế thứ sáu của đại Tân Sinh. Sự kết thúc của thế Pleistocen tương ứng với sự kết thúc của thời kỳ đồ đá cũ được sử dụng trong khảo cổ học.

Thế Pleistocen được phân chia thành Pleistocen sớm, Pleistocen giữa và Pleistocen muộn còn trong thời địa tầng học thì nó bao gồm các bậc hay tầng động vật như tầng Gelasia, tầng Calabria, tầng Ionia và tầng Tarantia.

Niên đại

Thế Pleistocen có niên đại từ khoảng 2.588.000 ±5.000 năm (cũ là 1.806.000 ±5.000 năm) tới 11.550 năm trước ngày nay, với niên đại kết thúc được biểu diễn bằng năm cacbon phóng xạ là 10.000 năm C-14 trước ngày nay. Nó bao gồm phần lớn chu kỳ gần đây nhất của sự đóng băng lặp lại, cho tới và bao gồm cả đợt lạnh Dryas Trẻ. Sự kết thúc của Dryas Trẻ có niên đại vào khoảng 9.700 TCN (khoảng 11.700 năm trước ngày nay).

Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS – một cơ quan của Liên đoàn Quốc tế các ngành Khoa học Địa chất (IUGS) đã xác nhận khoảng thời gian cho thế Pleistocen nhưng vẫn chưa xác nhận phẫu diện điển hình trong Phẫu diện và điểm kiểu địa tầng ranh giới toàn cầu (GSSP), cho ranh giới hai thế Pleistocen/Holocen. Phẫu diện được đề xuất là lõi băng của Dự án lõi băng Bắc Greenland tại tọa độ 75° 06' vĩ bắc và 42° 18' kinh tây.

Phẫu diện điển hình của GSSP cho khởi đầu thế Pleistocen truyền thống là phẫu diện tham chiếu tại Vrica, 4 km về phía nam Crotone ở Calabria, miền nam Italy, một khu vực mà niên đại chính xác của nó đã được xác nhận gần đây bằng phép định tuổi bằng đồng vị phóng xạ của stronti và oxy cũng như bằng trùng lỗ phù du.

Tên gọi có chủ định bao trùm thời kỳ gần đây của các chu kỳ băng giá lặp đi lặp lại; tuy nhiên, sự bắt đầu được thiết lập quá trễ, một số sự kiện lạnh giá đi và đóng băng sớm hiện nay được liệt vào trong tầng Gelasia (theo truyền thống là tầng kết thúc thế Pliocen). Một số nhà khí hậu học và địa chất học vì thế thích áp dụng niên đại cho sự bắt đầu vào khoảng 2,58 triệu năm trước ngày nay. Tên gọi Plio-Pleistocen trong quá khứ được dùng để chỉ thời kỳ băng hà cuối cùng. Nhưng do chỉ một phần của thế Pliocen được bao hàm, nên kỷ Đệ Tứ (Quaternary) sau đó đã được định nghĩa lại để bắt đầu vào 2,58 Ma để phù hợp hơn với các dữ liệu.

Lịch sử khí hậu liên tục từ thế Pliocen sang thế Pleistocen và thế Holocen là một lý do để ICS đề xuất không tiếp tục dùng thuật ngữ "Quaternary", nhưng đề xuất này bị Liên đoàn Quốc tế về Nghiên cứu Kỷ Đệ Tứ (INQUA) phản đối mạnh mẽ. ICS đề xuất rằng "Quaternary" nên được coi là một phân đại (sub-erathem) với gốc của nó là gốc của GSSP trong tầng Gelasia thuộc thế Pliocen vào khoảng 2,58 Ma tại Trạng thái Đồng vị Biển 103. Ranh giới thì không gây tranh cãi, nhưng địa vị phân đại thì bị INQUA từ chối. Vấn đề đang tranh luận có lẽ sẽ có giải pháp giữa ICS và INQUA trong năm 2008. Vì thế, thế Pleistocen hiện tại vẫn là thế của cả kỷ Neogen (theo ICS) dài và kỷ Đệ Tứ (theo INQUA) ngắn hơn.

Đề xuất của INQUA là mở rộng sự bắt đầu của thế Pleistocen vào thời gian khi bắt đầu tầng Gelasia, làm ngắn lại thế Pliocen, và kết thúc kỷ Neogen bằng sự kết thúc đã chỉnh sửa lại của thế Pliocen.

Hiệu ứng của sự đóng băng là toàn cầu. Châu Nam Cực bị băng che phủ trong toàn bộ thế Pleistocen cũng như trong thế Pliocen trước đó. Dãy Andes bị che phủ ở phía nam bởi chỏm băng Patagonia. Tồn tại các sông băng tại New Zealand và Tasmania. Các sông băng hiện tại đang tan của các đỉnh Kenya, Kilimanjaro, và dãy núi Rwenzori ở miền đông và trung châu Phi khi đó là lớn hơn hiện nay. Các sông băng cũng tồn tại trong các dãy núi ở Ethiopia và ở dãy núi Atlas.

Ở Bắc bán cầu, nhiều sông băng hợp lại thành một. Dải băng Cordillera che phủ khu vực tây bắc Bắc Mỹ; ở phía đông là dải băng Laurentia. Dải băng Fenno-Scandia che phủ miền bắc châu Âu, bao gồm cả Đảo Anh; dải băng Alps trên dãy núi Alps. Các vòm băng rải rác kéo dài xuyên suốt Siberi và thềm Bắc cực. Các biển phía bắc bị đóng băng.

Ở phía nam các dải băng là các hồ lớn do lối thoát nước bị ngăn lại và không khí lạnh làm giảm sự bốc hơi. Phía bắc miền trung Bắc Mỹ về tổng thể bị che phủ bởi hồ Agassiz. Trên 100 vùng lòng chảo, hiện nay đã khô cạn hoặc gần như thế, thì đã từng chảy lan tràn khắp ở miền tây Bắc Mỹ. Ví dụ, hồ Bonneville, đã từng tồn tại ở khu vực mà dấu tích còn sót lại hiện nay của nó chính là Hồ Muối Lớn. Tại đại lục Á-Âu, các hồ lớn cũng phát triển như là kết quả của các luồng nước khổng lồ chảy ra từ các sông băng. Các con sông cũng rất lớn và nhiều nước. Các hồ tại châu Phi cũng đầy tràn nước do sự bốc hơi bị giảm xuống.

Ngược lại, các sa mạc thì khô hơn và rộng lớn hơn. Lượng mưa thấp do suy giảm sự bốc hơi nước từ đại dương và các nguồn nước khác.

Các sự kiện chính

nhỏ|Các thời kỳ băng hà được phản ánh theo CO2 khí quyển, bị lưu giữ lại trong các bọt khí từ thời kỳ băng giá của [[châu Nam Cực.]] Bốn sự kiện băng giá lớn đã được nhận dạng, cũng như nhiều sự kiện nhỏ xen vào. Sự kiện chính là các dao động băng giá chung, được gọi là các chu kỳ "băng giá". Các chu kỳ băng giá được tách biệt bởi các chu kỳ "gian băng". Trong các kỳ băng giá, các sông băng trải qua các đợt gia tăng và thoái lui nhỏ. Các dao động thoái lui nhỏ của sông băng (khí hậu ấm hơn trong các kỳ băng giá, nhưng không kéo dài đủ để coi là gian băng) trong các kỳ băng giá gọi là "interstadial" còn các dao động gia tăng nhỏ của sông băng (khí hậu lạnh hơn trong các kỳ gian băng, nhưng không kéo dài đủ để coi là băng giá) trong các kỳ gian băng gọi là "stadial".

Các sự kiện này được định nghĩa rất khác nhau trong các khu vực khác nhau của dải băng giá, với lịch sử băng giá riêng biệt của chúng, phụ thuộc vào các yếu tố như vĩ độ, địa hình và khí hậu. Ở đây có sự tương ứng chung giữa các kỳ băng giá trong các khu vực khác nhau. Các nhà khoa học thường thay đổi tên gọi nếu địa chất sông băng của khu vực đang xem xét đã được định nghĩa trước đó. Tuy nhiên, nói chung là không chính xác khi dùng tên gọi thời kỳ băng giá của một khu vực cho một khu vực khác.

Trong phần lớn thế kỷ XX chỉ một vài khu vực đã được nghiên cứu và số lượng các tên gọi là tương đối ít. Ngày nay các nhà địa chất của các quốc gia khác nhau đã và đang quan tâm nhiều hơn tới sông băng học trong thế Pleistocen. Kết quả là số lượng tên gọi được gia tăng nhanh chóng và còn tiếp tục gia tăng.

Các kỳ băng giá trong bảng sau là sự đơn giản hóa của các chu kỳ phức tạp hơn của các biến động trong khí hậu và địa hình. Nhiều đợt gia tăng và thoái lui vẫn chưa có tên gọi. Bên cạnh đó, chứng cứ đất đá của một số chu kỳ nhỏ này đã bị xóa bỏ hay bị lu mờ đi bởi các tác động từ các chu kỳ lớn, nhưng các chứng cứ này vẫn còn tồn tại và có thể nhận ra nhờ các nghiên cứu thay đổi khí hậu mang tính chu kỳ này.

Tương ứng với các thuật ngữ băng giá và gian băng, các thuật ngữ pluvial (kỳ mưa) và interpluvial (kỳ gian mưa) cũng được dùng (Latinh: pluvia, mưa). Pluvial là thời kỳ ấm hơn với lượng mưa tăng lên; còn interpluvial là lạnh hơn với lượng mưa giảm xuống. Trước đây kỳ mưa được cho là tương ứng với kỳ băng giá trong các khu vực không bị đóng băng, và trong một số trường hợp thì nó là đúng. Lượng mưa cũng mang tính chu kỳ. Các kỳ mưa và kỳ gian mưa là khá phổ biến.

Tuy nhiên, không có sự tương ứng mang tính chất hệ thống giữa các kỳ mưa với kỳ băng giá. Ngoài ra, các kỳ mưa khu vực không tương ứng với nhau khi xem xét ở quy mô toàn cầu. Ví dụ, một số tác giả đã từng dùng thuật ngữ "Riss pluvial" (kỳ mưa Riss) trong ngữ cảnh khi nói về khí hậu của khu vực Ai Cập. Bất kỳ sự trùng khớp nào đó chỉ là ngẫu nhiên của các yếu tố cục bộ. Các tên gọi cho một số kỳ mưa ở một vài khu vực cũng đã được định nghĩa.

Các chu trình cổ

Tổng thể các yếu tố thoáng qua tác động tới bề mặt Trái Đất có tính chu kỳ: khí hậu, các hải lưu và các chuyển động khác, các phong lưu, nhiệt độ, v.v. Sự phản ứng dạng sóng đến từ các chuyển động tuần hoàn nằm phía dưới của hành tinh, cuối cùng lôi kéo mọi tác động thoáng qua thành đồng bộ và hài hòa với chúng. Các kỳ băng giá lặp đi lặp lại trong thế Pleistocen cũng do cùng các nguyên nhân này gây ra.

Chu kỳ Milankovitch

Sự đóng băng trong thế Pleistocen là một chuỗi các kỳ băng giá và gian băng, stadial và interstadial, phản ánh các thay đổi khí hậu có chu kỳ. Yếu tố chính làm cho khí hậu có chu kỳ hiện nay được coi là các chu kỳ Milankovitch. Chúng là các biến đổi có chu kỳ trong bức xạ mặt trời theo khu vực gây ra bởi tổng thể của nhiều thay đổi lặp lại trong chuyển động của Trái Đất.

Tuy nhiên, các chu kỳ Milankovitch không thể là yếu tố duy nhất do nó không giải thích được sự bắt đầu và kết thúc của thời kỳ băng hà trong thế Pleistocen, hay của các thời kỳ băng hà lặp lại. Chúng chỉ đơn thuần dường như là sự giải thích tốt nhất cho điều đó trong phạm vi thời gian của thế Pleistocen, và nó dự báo các kỳ băng giá với chu kỳ 100.000 năm.

Chu kỳ tỷ lệ đồng vị oxy

Trong phân tích tỷ lệ đồng vị oxy, các biến động trong tỷ lệ của O18 với O16 (hai đồng vị của oxy) theo phương pháp khối phổ (đo bằng máy đo phổ khối lượng) hiện diện trong canxit của các mẫu lõi đại dương được sử dụng như là phép chẩn đoán về thay đổi nhiệt độ đại dương cổ đại và vì thế là sự thay đổi của khí hậu. Các đại dương lạnh hơn thì giàu đồng vị O18 hơn, và nó nằm trong các lớp vỏ của các vi sinh vật tạo ra canxit.

Phiên bản gần đây hơn của quy trình lấy mẫu đồng vị sử dụng các lõi băng. Mặc dù nghèo O18 hơn nước biển, nhưng tuyết rơi trên các sông băng hàng năm lại vẫn chứa O18 và O16 theo tỷ lệ phụ thuộc vào nhiệt độ trung bình hàng năm.

Thay đổi nhiệt độ và khí hậu là chu kỳ khi vẽ biểu đồ của nhiệt độ theo thời gian. Các tọa độ nhiệt độ được lấy theo độ chênh lệch so với nhiệt độ trung bình hàng năm ngày nay, được coi là bằng 0. Kiểu đồ thị này dựa trên tỷ lệ khác của đồng vị so với thời gian. Các tỷ lệ được chuyển đổi thành các sai lệch phần trăm (d) so với tỷ lệ tìm thấy trong trung bình chuẩn của nước đại dương (SMOW).

Đồ thị trong cả hai kiểu xuất hiện như là dạng sóng với các âm bội. Một nửa thời kỳ là giai đoạn đồng vị biển (MIS). Nó chỉ ra các kỳ băng giá (dưới 0) hay gian băng (trên 0). Các âm bội là các stadial hay interstadial.

Theo chứng cứ này, Trái Đất trải qua 44 MIS, bắt đầu từ khoảng 2,4 Ma trong thế Pliocen. Các giai đoạn trong thế Pliocen là nông và thường xuyên. Các giai đoạn cuối cùng là mãnh liệt nhất và có khoảng cách lớn nhất.

Theo quy ước, các giai đoạn được đánh số bắt đầu từ thế Holocen, với số bắt đầu là MIS1. Các kỳ băng giá đánh số chẵn còn các kỳ gian băng đánh số lẻ. Các kỳ băng giá lớn là MIS2, MIS4 vào khoảng 850.000 năm trước. Các kỳ băng giá lớn nhất là 2, 6 và 12; các kỳ gian băng ấm nhất là 1, 5, 9 và 11. Để có sự phù hợp của các MIS với các giai đoạn có tên gọi, xem các bài cho các tên gọi này.

Quần động vật

Các quần động vật biển và lục địa về bản chất là hiện đại.

Các thay đổi khí hậu khắc nghiệt trong thời kỳ băng hà có các ảnh hưởng lớn đối với quần động vật và thực vật. Với mỗi đợt gia tăng của băng giá, các khu vực rộng lớn của các lục địa về tổng thể bị sụt giảm các quần thể sinh vật, và động vật cùng thực vật phải thoái lui xuống phía nam do phải đối mặt với các sông băng đang gia tăng cùng áp lực khủng khiếp. Áp lực khắc nghiệt nhất là kết quả của các thay đổi mạnh của khí hậu, do nó làm giảm không gian sinh sống và co hẹp nguồn cung cấp thức ăn. Sự kiện tuyệt chủng chính của các động vật có vú to lớn (quần động vật lớn), bao gồm voi mamut, voi răng mấu, mèo răng kiếm, thú răng khắc, lười đất, gấu mặt ngắn, đã bắt đầu vào cuối thế Pleistocen và tiếp tục trong thế Holocen. Người Neanderthal cũng bị tuyệt chủng trong thời kỳ này. Thế Pleistocen ở Nam Mỹ với [[Megatherium|lười đất lớn (Megatherium spp.) và hai thú răng khắc (Glyptodon spp.)]] Sự kiện tuyệt chủng có lẽ mãnh liệt nhất tại Bắc Mỹ với các loài ngựa và lạc đà bản địa bị tiêu diệt.

Các kỳ động vật có vú đất liền Bắc Mỹ (NALMA) là Blanca (4,5–1,2 Ma), Irvingtonia (1,2–0,5 Ma) và Rancholabrea (0,5–0,01 Ma). Blanca kéo dài đáng kể từ trong thế Pliocen.

Các kỳ động vật có vú đất liền Nam Mỹ (SALMA) là Uquia (2,5–1,5 Ma), Ensenada (1,5–0,3 Ma) và Lujania (0,3–0,01 Ma). Uquia kéo dài đáng kể từ trong thế Pliocen.

Tại châu Âu, các tầng động vật là Calabria (1,806–0,781 Ma), Sicilia (0,781–0,26 Ma) và Tyrrhenia (0,26–0,005 Ma).

Tông Người trong thế Pleistocen

Chứng cứ khoa học chỉ ra rằng loài người đã tiến hóa để có hình dáng giống như ngày nay trong thời gian thuộc thế Pleistocen. Vào đầu thế Pleistocen, các loài trong chi Paranthropus vẫn còn hiện diện, cũng như các tổ tiên sớm của loài người, nhưng trong thời gian Tiền đồ đá cũ chúng đã biến mất, và loài sinh vật dạng người duy nhất được tìm thấy trong các mẫu hóa thạch là người đứng thẳng (Homo erectus) trong phần lớn thời gian của thế Pleistocen. Loài này đã di cư xuyên qua phần lớn Cựu thế giới, tạo ra sự xuất hiện của nhiều biến thái của loài người. Thời gian thuộc Trung và Hậu đồ đá cũ đã có sự xuất hiện các kiểu người mới, cũng như sự phát triển của các công cụ phức tạp hơn so với trước đó. Theo các kỹ thuật định thời bằng ti thể, người hiện đại (Homo sapiens) đã di cư từ châu Phi sau băng giá Riss trong thời gian thuộc Trung đồ đá cũ (khoảng thời gian ứng với gian băng Eem), lan rộng ra khắp các khu vực không bị đóng băng vào cuối thế Pleistocen.

Trong khi quan điểm cơ bản "nguồn gốc châu Phi" về tiến hóa của loài người vẫn chưa bị thách thức thì một số nhà nghiên cứu lại cho rằng sự bành trướng lớn cuối cùng không loại trừ các quần thể sinh vật dạng người đã tồn tại trước đó đã bị đồng hóa khi chúng tiếp xúc với Homo sapiens. Trong khi điều này có thể gợi ý rằng các biến đổi ở người hiện đại có thể là có phạm vi rộng và mang tính khu vực thì học thuyết này vẫn còn gây nhiều tranh cãi.

Trầm tích

Các trầm tích lục địa thuộc thế Pleistocen được tìm thấy chủ yếu trong các đáy hồ, các trầm tích hoàng thổ và các hang động cũng như trong một lượng lớn các vật chất do các sông băng di chuyển qua lại. Các trầm tích biển thuộc thế Pleistocen được tìm thấy chủ yếu trong các khu vực trong phạm vi vài chục kilômét từ bờ biển ngày nay. Trong một vài khu vực hoạt động địa chất mạnh như bờ biển Nam California, các trầm tích biển thuộc thế Pleistocen có thể tìm thấy ở các vị trí có độ cao tới vài trăm mét.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thế Pleistocen** (phiên âm tiêng Việt: **Pleixtôxen**), còn gọi là **thế Canh Tân** hay **thế Cánh Tân** (), là một thế địa chất từng được tính từ khoảng 1,806 Ma tới 11,55 Ka BP (Ma/Ka
**Pleistocen muộn** (trong thời địa tầng còn gọi là **Pleistocen thượng** hay tầng **Tarantian**) là một bậc trong thế Pleistocen. Thời gian bắt đầu của giai đoạn này được xác định dựa trên thời kỳ
**Thế Pliocen** () hay **thế Pleiocen** hoặc **thế Thượng Tân** là một thế địa chất, theo truyền thống kéo dài từ khoảng 5,332 tới 1,806 triệu năm trước (Ma). Tuy nhiên, trong phiên bản 2009
**Thế Holocen** (Việt hóa: **Holoxen**) hay **thế Toàn Tân** () là một thế địa chất bắt đầu khi kết thúc thế Pleistocen, vào khoảng 11.700 năm trước (vào khoảng 9.700 TCN) và còn tiếp tục
**Thế Oligocen** hay **thế Tiệm Tân** là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 33,9 tới 23 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định thế
**Thế Eocen** hay **thế Thủy Tân** (55,8 ± 0,2 – 33,9 ± 0,1 triệu năm trước (Ma)) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất và là thế thứ hai của
**_Homo erectus_** (nghĩa là "người đứng thẳng", từ tiếng Latinh _ērigere_, "đứng thẳng"), còn được dịch sang tiếng Việt là **_trực nhân_**, là một loài người tuyệt chủng từng sinh sống trong phần lớn khoảng
**Megatherium** ( từ tiếng Hy Lạp _mega_ [μέγας], nghĩa là "lớn", và_therion_ [θηρίον], "thú") là một chi lười đất với kích cỡ như voi sống cách đây 2 triệu đến 8.000 năm về trước. Chi
**Tầng Chibania**, được biết đến rộng rãi với tên gọi trước đây của nó là Pleistocen giữa, là một bậc địa tầng trong thế Pleistocen của kỷ Đệ tứ đang diễn ra. Tên Chibania được
**Chi Thú xương mỏng (tê giác khổng lồ cổ đại)**, tên khoa học **_Elasmotherium_**, là một chi tê giác khổng lồ cao trung bình 2 m (7 ft), dài 4,5-5,0 m (16–17 ft), có một sừng dài khoảng 2
**Gấu mặt ngắn khổng lồ** hay **gấu Arctodus** (tiếng Hy Lạp, "gấu răng") là loài gấu đặc hữu đã tuyệt chủng trong khoảng thời gian Thế Pleistocen, kỷ băng hà có niên đại cách đây
nhỏ|trái|Bộ xương của _Toxodon_. **_Toxodon_** là một chi thú đã tuyệt chủng sống vào giai đoạn từ thế Pliocen tới thế Pleistocen, khoảng 2,6 triệu đến 1.800 năm trước. Chúng có gốc gác Nam Mỹ.
**_Gigantopithecus_** là một chi vượn người tồn tại từ 9 triệu năm trước đây cho đến 100.000 năm trước đây, ở khu vực ngày nay là Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam, có nghĩa
**_Homo ergaster_** là một loài đã tuyệt chủng của chi Người từng sinh sống ở miền đông và miền nam châu Phi vào đầu thế Pleistocen. Theo các nguồn khác nhau thì từ khoảng 1,8
**Tầng Calabria** là một bậc địa tầng trong thế Pleistocen của kỷ Đệ tứ đang diễn ra. Trong thang thời gian địa chất kỳ Calabria được xác định là từ cỡ 1,8 Ma đến 781
**Dromornithidae**, cũng thường được gọi là **mihirung**, **chim** **sấm sét** hay **vịt quỷ**, là một nhánh các loài chim Úc lớn không bay vào thế Oligocen đến thế Pleistocen. Tất cả hiện đã tuyệt chủng.
**_Sardolutra ichnusae_** là một loài rái cá đã tuyệt chủng từ thế Pleistocen. Ban đầu nó được miêu tả là **_Nesolutra ichnusae_**. Nó khá nhỏ nếu so với các loài rái cá khác, và có
**Tầng Gelasia** (hay **tầng Waltonia**) theo truyền thống là một bậc hay tầng của thế Pliocen (theo ICS). Tuy nhiên trong phiên bản 2009 về niên đại địa chất của ICS thì nó đã được
**_Homotherium_** là một loài bị tuyệt chủng của mèo cắn răng Machairodontinae, thường được gọi là mèo răng khỉ, có thể trải dài từ Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Âu Á và châu Phi trong thời
**Băng hà Đệ Tứ** và sự ảnh hưởng của nó đến tự nhiên trên Trái Đất: Diễn ra từ giữa Thế Pleistocen đến cuối Thế Pleistocen. Khí hậu đặc trưng bởi các thời kì băng
**Pleistocen sớm** (trong thời địa tầng còn gọi là tầng Calabria) là một giai đoạn trong thế Pleistocen. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này được xác định là 1,806 ± 0,005 triệu năm
Trong địa chất học, một **thế** hay một **thế địa chất** là một đơn vị thời gian địa chất, phân chia các kỷ địa chất thành các khoảng thời gian nhỏ hơn, thường là vài
**Hươu núi Mỹ** (Danh pháp khoa học: **_Odocoileus lucasi_**) là một loài hươu đã tuyệt chủng của nhóm hươu Bắc Mỹ, trong lịch sử nó đã bị nhầm lẫn với loài Navahoceros fricki và được
**_Paranthropus aethiopicus_** hoặc _Australopithecus aethiopicus_ là một loài đã tuyệt chủng Hominin, một trong những _Australopithecus_ mạnh mẽ. Hiện đã có một cuộc tranh luận về nguồn gốc phyletic chính xác của mỗi loài. Các
**Acinonyx pardinensis** là một loài báo từng sinh sống tại châu Âu từ thế Pliocene đến Pleistocene. ## Tham khảh Thể loại:Acinonyx Thể loại:Động vật có vú Thế Pleistocen Châu Á Thể loại:Động vật tuyệt
**_Paranthropus robustus_** (hoặc **_Australopithecus robustus_**) là một Hominin sớm, ban đầu được phát hiện ở Nam Phi vào năm 1938. Các tính năng sọ Riêng về, sự phát triển của _P. robustus_ dường như trong
**Voi ma mút thảo nguyên**, tên khoa học **_Mammuthus trogontherii_**, là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. Hóa thạch có niên đại từ 600.000 - 370.000 năm về trước thuộc thế Pleistocen. Cùng
Một ấn tượng của một nghệ sĩ về thời kỳ băng hà cuối cùng ở mức tối đa của băng hà. Dựa trên: "Các thay đổi carbon trên mặt đất kỷ băng hà được xem
**_Zaglossus hacketti_** là một loài thú lông nhím mỏ dài đã tuyệt chủng ở Tây Úc có niên đại vào thế Pleistocen. Nó chỉ được biết đến từ một vài khúc xương. Nó dài khoảng
**_Homo sapiens idaltu_** là một phân loài đã tuyệt chủng của người _Homo sapiens_ sống cách đây 160.000 năm trước ở châu Phi trong thế Pleistocen. "Idaltu" từ chữ Saho-Afar có nghĩa là "đàn anh"
**_Bos acutifrons_** là danh pháp hai phần của đại diện cổ đại nhất của chi _Bos_. _Bos acutifrons_ sinh sống cho tới tận giữa thế Pleistocen tại Ấn Độ. Nhiều nhà khoa học cho rằng
**Chó rừng Sardegna** (danh pháp hai phần: _Cynotherium sardous_) là một loài chó đảo đặc hữu của các đảo Sardegna (Italia) và Corsica (Pháp) mà được liên kết với nhau trong thế Pleistocen. Nó bị
**Họ Kền kền Tân thế giới** (danh pháp khoa học: **_Cathartidae_**) là một họ chim chứa 7 loài, phân bố trong 5 chi, ngoại trừ 1 chi với 3 loài thì tất cả các chi
**Núi lửa Cơ Long** () là một quần thể núi lửa ở phía Bắc Đài Loan, trải dài từ Đài Bắc và Cơ Long, và tiếp giáp với bờ biển phía Bắc của Đài Loan.
**Chi Voi ma mút** hay **chi Voi lông dài** (danh pháp khoa học: **_Mammuthus_**) là một chi voi cổ đại đã bị tuyệt chủng. Tồn tại ở thế Pliocen, vào khoảng 4,8 triệu năm đến
thumb|left|Bốn góc nhìn chiếc rìu cầm tay Acheulean thumb|Khởi đầu dùng công cụ đá, như ở [[khỉ mũ|khỉ capuchin]] **Sơ kỳ Đá cũ**, còn gọi là **Paleolithic sớm** hay **Paleolithic dưới,** là giai đoạn đầu
**Báo sư tử** (_Puma concolor_) hay **báo cuga** (tiếng Anh: **Cougar**) là một loài mèo lớn trong Họ Mèo phân bố ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Phạm vi của nó kéo dài
**_Smilodon_** là một chi của phân họ Machairodont đã tuyệt chủng thuộc Họ Mèo. Chúng là một trong những động vật có vú thời tiền sử nổi tiếng nhất và loài mèo răng kiếm được
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
**_Homo habilis_** (phiên âm tiếng Việt: **_Hômô habilit_**; dịch nghĩa: **người khéo léo**; Hán-Việt: **xảo nhân**) là một loài người cổ xưa đã tuyệt chủng từng sinh sống ở Đông và Nam Phi vào thế
**Họ Cá đuôi gai** (tên khoa học: **_Acanthuridae_**) là một họ cá theo truyền thống được xếp trong phân bộ Acanthuroidei của bộ Cá vược (Perciformes). Họ này có khoảng 84 loài thuộc 6 chi,
**Cervalces Scotti** hay còn gọi là **nai sừng tấm đực** (Stag-moose) là một con nai sừng tấm lớn, với cái mõm giống như một con nai điển hình phân bố Bắc Mỹ trong kỷ Pleistocene.
**Người Bắc Kinh**, trước đây gọi là **người vượn Bắc Kinh** (danh pháp hai phần: **_Homo erectus pekinensis_**, đồng nghĩa: **_Sinanthropus pekinensis_**), là một phân loài người đứng thẳng (_Homo erectus_). Các dấu vết khảo
**Nai sừng tấm Ireland** hay **Nai khổng lồ** (tên khoa học **_Megaloceros giganteus_**) là một loài thuộc họ _Megaloceros_ và là loài nai lớn nhất từng sống trên Trái Đất. Chúng là loài có phạm
**Voi ma mút lông xoăn**, còn gọi là **voi ma mút lãnh nguyên** (danh pháp khoa học: _Mammuthus primigenius_) là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. Voi ma mút lông xoăn là một
**Glyptodon** (từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "răng có rãnh hoặc chạm khắc": γλυπγλυ "được điêu khắc" và ὀδοντ-, ὀδούς, "dăng") là một chi của các loài động vật có vú lớn, được bọc
**_Macrauchenia_**, còn gọi là **Lạc đà không bướu dài**, là các loài động vật có vú móng guốc Nam Mỹ có cổ dài và chân dài, chân ba ngón, tiêu biểu cho bộ Litopterna. Các
**Canariomys bravoi** là một loài động vật gặm nhấm đặc hữu của đảo Tenerife (quần đảo Canary, Tây Ban Nha), đã tuyệt chủng. Các hóa thạch của loài này được tìm thấy hầu như khắp
thumb|Ảnh vệ tinh của núi Carachipampa **Carachipampa** là một ngọn núi lửa hình nón có từ Thế Pleistocen tại Argentina. Nó là một phần của một khu vực núi lửa rộng lớn hơn đã sản
**Voi ma mút lùn** (danh pháp hai phần: **_Mammuthus exilis_**) là hậu duệ bị lùn hóa của voi ma mút, có thể là của _Mammuthus columbi_, tức voi ma mút Columbia. _M. exilis_ đã sinh