✨Thang đo xoáy thuận nhiệt đới
Các xoáy thuận nhiệt đới được xếp hạng theo một trong năm thang đo cường độ xoáy thuận nhiệt đới, dựa trên sức gió duy trì tối đa và vị trí địa lý của chúng. Chỉ có vài thang phân loại được sử dụng một cách chính thức bởi các cơ quan khí tượng giám sát các xoáy thuận nhiệt đới, nhưng cũng có các thang đo hoặc đại lượng thay thế khác, ví dụ như năng lượng xoáy thuận tích lũy (accumulated cyclone energy), Chỉ số Hao tán Năng lượng (Power Dissipation Index), Chỉ số Động năng Tích hợp (Integrated Kinetic Energy Index) và Chỉ số Cường độ Bão (Hurricane Severity Index).
Các xoáy thuận nhiệt đới phát triển tại Bắc bán cầu được các trung tâm cảnh báo phân loại một cách không chính thức bằng một trong ba thang cường độ. Các xoáy thuận nhiệt đới hoặc xoáy thuận cận nhiệt đới tồn tại ở khu vực Bắc Đại Tây Dương hoặc Đông Bắc Thái Bình Dương được phân loại thành áp thấp nhiệt đới hoặc bão nhiệt đới. Nếu hệ thống này tiếp tục mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong (hurricane), khi đó nó sẽ được phân loại theo thang gió bão Saffir–Simpson, dựa trên sức gió duy trì tối đa ước tính trong khoảng thời gian 1 phút. Ở khu vực Tây Thái Bình Dương, Ủy ban Bão của ESCAP/WMO sử dụng bốn cấp độ dựa trên sức gió duy trì tối đa ước tính trong khoảng thời gian 10 phút để phân loại các xoáy thuận nhiệt đới tại đây..
Thang đo của Cục Khí tượng Ấn Độ sử dụng 7 cấp độ khác nhau dành cho các hệ thống bão tại khu vực Bắc Ấn Độ Dương, dựa trên sức gió duy trì tối đa trong thời gian 3 phút. Các xoáy thuận nhiệt đới phát triển tại Nam bán cầu chỉ được các trung tâm cảnh báo phân loại chính thức bằng một trong hai thang đo, tất cả đều dựa trên sức gió duy trì trong 10 phút: thang đo cường độ xoáy thuận nhiệt đới của Úc được sử dụng để phân loại các hệ thống trên khu vực Úc hoặc Nam Thái Bình Dương. Thang đo sử dụng cho các hệ thống tại Tây Nam Ấn Độ Dương được Cục Khí tượng Pháp (Météo-France) định nghĩa và sử dụng tại các lãnh thổ hải ngoại của Pháp như New Caledonia và Polynesia thuộc Pháp.
Định nghĩa về sức gió duy trì được khuyến cáo bởi Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) và sử dụng bởi hầu hết các cơ quan thời tiết là vận tốc gió trung bình trong 10 phút ở độ cao 10 m (33 ft) so với mặt biển. Tuy nhiên, thang bão Saffir–Simpson lại dựa trên các kết quả đo vận tốc gió trung bình trong khoảng thời gian 1 phút ở độ cao 10 m (33 ft). Thang đo dùng bởi Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực (RSMC) New Delhi sử dụng số liệu trung bình trong khoảng thời gian 3 phút, còn thang đo của Úc dựa trên cả vận tốc gió giật trong 3 giây và sức gió duy trì tối đa trung bình trong 10 phút. Những sự khác biệt này khiến cho việc so sánh trực tiếp giữa các khu vực trở nên khó khăn.
Ở tất cả các khu vực, các xoáy thuận nhiệt đới đều được đặt tên khi sức gió duy trì đạt ít nhất .
Đại Tây Dương, Đông và Trung Thái Bình Dương
Các xoáy thuận nhiệt đới hoạt động tại Bắc bán cầu từ phía đông đường kinh tuyến 180 được giám sát chính thức bởi Trung tâm Bão Quốc gia Hoa Kỳ hoặc Trung tâm Bão Trung Thái Bình Dương. Tại khu vực này, xoáy thuận nhiệt đới được định nghĩa là một vùng nhiễu động quy mô lớn không có front, lõi ấm, phát triển trên vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, có cấu trúc đối lưu khí quyển và vùng trung tâm hoàn lưu khép kín được xác định rõ ràng. Mỗi hệ thống cũng được sinh ra một tên gọi tắt bằng hai chữ số (kèm theo phần hậu tố phía sau giống như số TC, ví dụ như TD 08 là của cơn áp thấp Bắc Đại Tây Dương EIGHT, TD 21E là của cơn áp thấp Đông Thái Bình Dương TWENTYONE-E, hay TD 03C là của cơn áp thấp Trung Thái Bình Dương THREE-C) để sử dụng cho các bản tin và hệ thống tự động khác.
Tuy nhiên, nếu một vùng nhiễu động nhiệt đới có khả năng sản sinh ra một cơn bão nhiệt đới hoặc gây ra gió bão trên đất liền trong vòng 48 giờ, các bản tin khuyến cáo sẽ được kích hoạt và nó sẽ được phân loại là một xoáy thuận nhiệt đới tiềm tàng (PTC) Nếu bão tiếp tục mạnh lên và đạt sức gió từ 83 and 95 kn (96–110 mph, 154–177 km/h), nó sẽ trở thành một cơn bão Cấp 2.
Trước mùa bão 2012, thang Saffir–Simpson đã có sự điều chỉnh nhỏ về sức gió ở các cấp từ 3 đến 5 để tránh gây ra lỗi làm tròn như ở các mùa bão trước đó.
Tây Thái Bình Dương
Các xoáy thuận nhiệt đới tại Bắc bán cầu từ kinh tuyến 180 đến kinh tuyến 100 Đông được giám sát chính thức bởi Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA, RSMC Tokyo). Tại khu vực này, xoáy thuận nhiệt đới được định nghĩa là một xoáy thuận quy mô lớn không có front bắt nguồn từ vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, có cấu trúc đối lưu và hoàn lưu gió xoáy bề mặt xác định. Vào tháng 5 năm 2015, PAGASA cũng giới thiệu thuật ngữ siêu bão, sử dụng cho các hệ thống có sức gió trên .
Ngoài các cơ quan khí tượng quốc gia ở mỗi nước, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) của Hoa Kỳ cũng tham gia giám sát khu vực Tây Thái Bình Dương và đưa ra các cảnh báo về những xoáy thuận nhiệt đới đáng chú ý cho Chính phủ Hoa Kỳ, đồng thời đặt cho mỗi hệ thống một số TC hai chữ số (kèm hậu tố "W"). Thang đo này bao gồm các cấp độ: Áp thấp nhiệt đới, Bão nhiệt đới, Bão cuồng phong và Siêu bão. Ngoài ra, khi một áp thấp nhiệt đới được nâng cấp lên thành bão nhiệt đới và được JMA đặt tên, JTWC sẽ gắn tên quốc tế (trong dấu ngoặc đơn) vào đằng sau số TC
Bắc Ấn Độ Dương
Bất kỳ xoáy thuận nhiệt đới nào phát triển tại khu vực Bắc Ấn Độ Dương từ kinh tuyến 100 Đông đến kinh tuyến 45 Đông được giám sát bởi Cục Khí tượng Ấn Độ (IMD, RSMC New Delhi). Tại khu vực này, xoáy thuận nhiệt đới được định nghĩa là một xoáy thuận quy mô lớn không có front, bắt nguồn từ vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới với cấu trúc đối lưu và hoàn lưu gió xoáy bề mặt xác định. Các cấp độ khác từng sử dụng trước đây bao gồm: cấp Bão xoáy khi sức gió không vượt quá cấp 10 trên thang Beaufort và cấp Xoáy thuận khi sức gió đạt cấp 11, cấp 12 trên thang Beaufort.
Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp Hoa Kỳ cũng tham gia giám sát khu vực này và đưa ra các cảnh báo về các xoáy thuận nhiệt đới đáng chú ý thay mặt Chính phủ Hoa Kỳ, Tại khu vực này, vùng nhiễu động nhiệt đới được định nghĩa là một khu vực áp suất thấp quy mô lớn không có front, bắt nguồn từ vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, có cấu trúc đối lưu và hoàn lưu gió xoáy bề mặt xác định, vận tốc gió trung bình ước tính không vượt quá 27 kn (50 km/h).
Hệ thống sẽ được phân loại là áp thấp nhiệt đới hoặc áp thấp cận nhiệt đới khi vận tốc gió vượt mức 28 kn (50 km/h, 32 mph). Nếu áp thấp nhiệt đới đạt sức gió trên 35 kn (65 km/h, 40 mph), nó sẽ được phân loại là một cơn bão nhiệt đới trung bình và được đặt tên bởi một trong hai trung tâm khí tượng khu vực tại Mauritius và Madagascar. Các hệ thống cận nhiệt đới sẽ luôn được gọi là áp thấp cận nhiệt đới bất kể cường độ.
Nếu cơn bão tiếp tục mạnh lên và đạt sức gió 48 kn (89 km/h, 55 mph), nó sẽ được nâng lên cấp bão nhiệt đới dữ dội. Cụ thể, các cấp độ Áp thấp nhiệt đới yếu, Áp thấp nhiệt đới trung bình và Áp thấp nhiệt đới dữ dội được thay đổi lần lượt thành Áp thấp nhiệt đới, Bão nhiệt đới trung bình và Bão nhiệt đới dữ dội. bao gồm Cục Khí tượng Fiji (FMS), Cục Khí tượng New Zealand (MetService), Cơ quan Khí tượng, Khí hậu, và Địa vật lý Indonesia (BMKG), Cục Thời tiết Quốc gia Papua New Guinea (PNG-NWS) và Cục Khí tượng Úc (BoM). Tại khu vực này, xoáy thuận nhiệt đới được định nghĩa là một hệ thống áp suất thấp không có front quy mô lớn, phát triển trên vùng biển ấm, có cấu trúc hoàn lưu gió xác định và vận tốc gió duy trì trong 10 phút gần tâm từ trở lên. Một cơn xoáy thuận nhiệt đới Cấp 1 có vận tốc gió duy trì trong 10 phút ước tính trong khoảng , còn xoáy thuận nhiệt đới Cấp 2 có sức gió duy trì 10 phút trong khoảng . Khi hệ thống đạt cường độ Cấp 3, nó sẽ trở thành một Xoáy thuận nhiệt đới dữ dội và có vận tốc gió từ .
Năng lượng xoáy thuận tích lũy (accumulated cyclone energy, viết tắt là ACE) được NOAA và các cơ quan khác sử dụng để biểu diễn hoạt động của các xoáy thuận nhiệt đới có cường độ trên cấp bão nhiệt đới và của cả mùa bão. ACE được tính bằng cách lấy bình phương vận tốc gió duy trì tối đa của tất cả các cơn bão nhiệt đới đang hoạt động (có vận tốc gió trên 35 kn) trong khoảng thời gian sáu giờ.
Chỉ số Cường độ Bão (Hurricane Severity Index, viết tắt là HSI) là một thang đo lường khác được sử dụng để đánh giá cường độ của mọi loại xoáy thuận nhiệt đới và cận nhiệt đới, dựa trên cả sức gió và kích thước trường gió. HSI dựa trên thang điểm từ 0 đến 50, trong đó tối đa 25 điểm dành cho cường độ của cơn xoáy thuận nhiệt đới và tối đa 25 điểm cho kích thước trường gió.
**Xoáy thuận nhiệt đới Harold** là xoáy thuận nhiệt đới nghiêm trọng Cấp 5 đầu tiên xảy ra ở khu vực Nam Thái Bình Dương kể từ bão Gita vào năm 2018 và