✨Thân vương xứ Oranje

Thân vương xứ Oranje

thumb|Huy hiệu của Thân vương xứ Orange (1815–1884) right|thumb|Huy hiệu của Bá quốc Orenge, thuộc Nhà Orange thời kỳ đầu.right|thumb|Huy hiệu của đô thị [[Orange, Vaucluse|Orange ở Vaucluse. Được các Thân vương xứ Orange ban cho vào nửa sau thế kỷ XII.]]

Thân vương xứ Oranje (tiếng Hà Lan: Prins van Oranje; tiếng Pháp: Prince d'Orange; tiếng Đức: Fürst von Orange) là một tước hiệu quý tộc châu Âu gắn với Thân vương quốc Orange, một lãnh địa nhà nước có chủ quyền trong lịch sử ở miền Nam nước Pháp. Tước hiệu này hiện được Vương thất Hà Lan (Nhà Nassau) sử dụng như một tước hiệu phụ dành cho người giữ địa vị trữ quân của ngai vàng Hà Lan.

Khái quát

Tước hiệu "Thân vương xứ Orange" được Hoàng đế Friedrich I Barbarossa của Đế quốc La Mã Thần thánh đặt ra vào năm 1163, bằng cách nâng Bá quốc Orange lên thành một Thân vương quốc, nhằm tăng cường sự ủng hộ của giới quý tộc ở xứ này dành cho ông trong cuộc xung đột với Giáo hoàng. Năm 1173, tước hiệu và đất đai được chuyển cho các nhà quý tộc Pháp thuộc Nhà Baux, năm 1393 thuộc về Nhà Chalon-Arlay, trước khi đến với Rene của Nassau vào năm 1530. Thân vương quốc này sau đó được chuyển cho một quý tộc Hà Lan, anh họ của Rene là Willem I xứ Oranje vào năm 1544.

Năm 1702, sau khi cháu trai của Willem I xứ Oranje là William III của Anh qua đời mà không có con, tranh chấp nảy sinh giữa anh em họ của ông, John Willem Friso và Friedrich I của Phổ. Năm 1713, theo Hiệp ước Utrecht, Friedrich Wilhelm I của Phổ đã nhượng lại Thân vương quốc Orange cho Vua Louis XIV của Pháp (nhưng vẫn giữ lại tước hiệu Thân vương xứ Oranjge cho vương triều của mình). Năm 1732, theo Hiệp ước phân chia, con trai của Friso, Willem IV đồng ý chia sẻ việc sử dụng tước hiệu "Thân vương xứ Orange" (đã có uy tín ở Hà Lan và thế giới đạo Tin lành) với Frederick William.

Với sự ra đời của Vương quốc Hà Lan vào thế kỷ XIX, tước hiệu này theo truyền thống được ban cho người thừa kế rõ ràng của quốc vương Hà Lan. Mặc dù ban đầu chỉ được phong cho nam giới, kể từ năm 1983, tước hiệu này được phong cho cả Hoàng tử hoặc Công chúa.

Vương tộc Orange-Nassau, Vương tộc trị vì Vương quốc Hà Lan hiện tại không phải là gia đình duy nhất tuyên bố tước vị Thân vương xứ Orange. Tước vị này đã được các vị vua và hoàng đế Đức thuộc Vương tộc Hohenzollern tuyên bố là của mình. Nó cũng bị gia đình quý tộc Pháp là Mailly tranh dành. Những nhân vật hiện đang sử dụng tước hiệu này là Vương nữ Catharina-Amalia của Hà Lan (Orange-Nassau), Georg Friedrich (của Hohenzollern) và Guy (của Mailly-Nesle).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Huy hiệu của Thân vương xứ Orange (1815–1884) right|thumb|Huy hiệu của Bá quốc Orenge, thuộc Nhà Orange thời kỳ đầu.right|thumb|Huy hiệu của đô thị [[Orange, Vaucluse|Orange ở Vaucluse. Được các Thân vương xứ Orange ban
**Willem V** (tiếng Hà Lan: _Willem Batavus_; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là _Stadtholder_ cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người
**Wilhelm I xứ Oranje** (24 tháng 4 1533 - 10 tháng 7 1584), thường được gọi là **Willem de Zwijger** (tạm dịch ra tiếng Việt là _Willem Trầm lặng_), hay đơn giản là **Willem van
**Willem IV** (tiếng Hà Lan: _Willem Karel Hendrik Friso_; 1 tháng 9 năm 1711 – 22 tháng 10 năm 1751) là Thân vương xứ Oranje từ khi mới sinh ra và là _stadtholder_ cha truyền
**Frederick Louis, Thân vương xứ Wales**, KG (1 tháng 2 năm 1707 – 31 tháng 3 năm 1751) là Trữ quân của nước Anh từ 1727 cho đến khi qua đời. Ông là con trai
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
nhỏ|Chân dung Anna của Hannover – tranh của Bernardus Accama (năm 1736) **Anne của Đại Anh** (tiếng Anh: _Anne of Great Britain_; tiếng Đức: _Anna von Großbritannien_; ; 2 tháng 11 năm 1709 - 12
**Thân vương quốc Orange** (tiếng Pháp: _la Principauté d'Orange_) là một Thân vương quốc nằm trong khối chư hầu của Thánh chế La Mã. Vị trí của nó hiện nay thuộc khu vực Provence, miền
**René xứ Chalon** (05 tháng 02 năm 1519 - 15 tháng 07 năm 1544), còn được gọi là **Renatus xứ Chalon**, ông là Thân vương xứ Orange và stadtholder của các xứ Holland, Zeeland, Utrecht
**Philibert de Chalon** (18 tháng 3 năm 1502 - 3 tháng 8 năm 1530) là Thân vương xứ Orange cuối cùng đến từ Nhà Chalon-Arlay. Ông phục vụ Hoàng đế Karl V của Thánh chế
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Hà Lan: _Wilhelmina van Pruisen_; tiếng Anh: _Wilhelmina of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Sophie Wilhelmine_; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
**Willem III** (tiếng Hà Lan: _Willem Alexander Paul Frederik Lodewijk_, tiếng Anh: _William Alexander Paul Frederick Louis_; 19 tháng 2 năm 1817 - 23 tháng 11 năm 1890) là Vua của Hà Lan và Đại
**Vương nữ Catharina-Amalia** (**Catharina-Amalia Beatrix Carmen Victoria**; sinh ngày 7 tháng 12 năm 2003) là con trưởng của vua Willem-Alexander và Vương hậu Máxima của Hà Lan. Cô hiện đang đứng đầu trong dòng kế
**Willem-Alexander của Hà Lan** (; Willem-Alexander Claus George Ferdinand; sinh ngày 27 tháng 4 năm 1967). Là vua của Hà Lan từ năm 2013. Ông là con trai trưởng của Beatrix của Hà Lan và
thumb|Huy hiệu của Lãnh chúa xứ Baux **Nhà Baux** là một gia đình quý tộc Pháp đến từ miền Nam nước Pháp. Đó là một trong những gia đình giàu có và quyền lực nhất
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Charlotte Augusta xứ Wales** (7 tháng 1 năm 1796 – 6 tháng 11 năm 1817) là hậu duệ duy nhất của George IV của Liên hiệp Anh (bấy giờ là Thân vương xứ Wales) và
**Anna Scott, Công tước thứ 1 xứ Buccleuch** cũng gọi là **Anne Scott** (11 tháng 2 năm 1651 – 6 tháng 2 năm 1732) là một Nữ Công tước người Scotland giàu có. Sau khi
**John William Friso** (tiếng Hà Lan: _Johan Willem Friso_; 14 tháng 8 năm 1687 – 14 tháng 7 năm 1711) trở thành Thân vương xứ Orange (trên danh nghĩa) vào năm 1702. Ông là _Stadtholder_
**Marie Luise xứ Hessen-Kassel** (7 tháng 2 năm 1688 – 9 tháng 4 năm 1765) là một nhiếp chính Hà Lan, trở thành Thân vương phi xứ Oranje sau khi kết hôn với John William
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Anne xứ Bretagne** (tiếng Pháp: _Anne de Bretagne_; tiếng Breton: _Anna Vreizh hay Anna Breizh_; 25 tháng 1 năm 1477 – 9 tháng 1 năm 1514), là Nữ công tước xứ Bretagne và Vương hậu
**Tuyển đế hầu August xứ Sachsen** (31 tháng 7 năm 1526 – 11 tháng 2 năm 1586) là Tuyển hầu xứ Sachsen từ năm 1533 đến khi qua đời vào năm 1586, và là tuyển
**Vương tử William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh** (25 tháng 11 năm 1743 – 25 tháng 8 năm 1805) là cháu trai của George II và là em trai của George III của
**Louis I xứ Orléans** (; 13 tháng 3 năm 1372 - 23 tháng 11 năm 1407) là Công tước xứ Orléans từ năm 1392 cho đến khi ông qua đời. Ông cũng là Công tước
**Nhà Nassau** (tiếng Đức: _Haus Nassau_; tiếng Anh: _House of Nassau_) là một vương tộc nổi tiếng ở châu Âu. Nó được đặt theo tên của lãnh địa gắn liền với lâu đài Nassau, nằm
**Isabel của Navarra** (1395 – 31 tháng 8 năm 1450) là con gái của Carlos III của Navarra và Leonor của Castilla. ## Thiếu thời Không lâu trước khi Isabel chào đời, mẹ của Isabel,
**Mary Henrietta của Anh hay Mary Henrietta, Vương nữ Vương thất** (tiếng Anh: _Mary Henrietta of England_, _Mary Henrietta, Princess Royal_; 4 tháng 11 năm 1631 - 24 tháng 12 năm 1660), là một Vương
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
**Sophie của Württemberg** (tên đầy đủ: _Sophie Friederike Mathilde_; 17 tháng 6 năm 1818 – 3 tháng 6 năm 1877) là Vương hậu Hà Lan với tư cách là vợ đầu tiên của Willem III
**Alexia Juliana Marcela Laurentien, Vương nữ Hà Lan, Nữ Thân vương xứ Oranje-Nassau** (; sinh ngày 26 tháng 06 năm 2005) là con gái thứ hai của Willem-Alexander, Quốc vương Hà Lan và Vương hậu
**Vương hậu Máxima, Vương phi Hà Lan, Thân vương phi xứ Oranje-Nassau, Phu nhân Amsberg** (; sinh 1971) là đương kim Vương hậu Hà Lan, vợ của Quốc vương Hà Lan Willem-Alexander của Hà Lan.
**Wilhelmina Charlotte Caroline xứ Brandenburg-Ansbach** (1 tháng 3, năm 1683 – 20 tháng 11, năm 1737 Cha bà là nhà cai trị của một trong những lãnh thổ nhỏ nhất trong các thành bang ở
**Friedrich I**, còn viết là **Frederic** (đọc là **Frêđêrich**) (11 tháng 7 năm 1657 – 25 tháng 2 năm 1713) là một thành viên của Nhà Hohenzollern. Ông là Tuyển hầu tước xứ Brandenburg (1688
**Barbara Villiers, Công tước thứ 1 xứ Cleveland, Bá tước phu nhân xứ Castlemaine** ( – 9 tháng 10 năm 1709), là tình nhân của Charles II của Anh. Barbara Villiers là chủ đề của
**James Scott, Công tước thứ 1 xứ Monmouth** và **Công tước thứ 1 xứ Buccleuch**, KG, PC (9 tháng 4 năm 1649 – 15 tháng 7 năm 1685) là một nhà quý tộc trong Đẳng
**Marie-Hélène Angela (Marilène) van den Broek** (sinh ngày 4 tháng 2 năm 1970) là vợ của Vương tôn Maurits van Vollenhoven, và từng là thành viên của Triều đình Hoàng gia Hà Lan cho đến
thumb|right|Ngai vàng của Đức vua Hà Lan đặt tại Ridderzaal Từ những năm 1814 đến năm 1887 ngai vàng của Hà Lan chỉ được truyền cho con gái nếu Đức vua đương nhiệm không có
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
**Maria xứ Modena** ( hay _Maria d'Este;_ tiếng Anh: _Mary of Modena_; tên đầy đủ: _Maria Beatrice Eleonora Anna Margherita Isabella d'Este_; 5 tháng 10 [**lịch cũ:** 25 tháng 9] năm 1658 – 7 tháng
**Elizabeth Stuart** (28 tháng 12 năm 1635 – 8 tháng 9 năm 1650) là con gái thứ hai của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Từ khi sáu tuổi cho đến khi
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Maria Christina, Vương nữ Hà Lan, Vương nữ của Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 18 tháng 2 năm 1947 - 16 tháng 8 năm 2019) là con gái út của Nữ
**Margriet Francisca của Hà Lan, Vương nữ Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 19 tháng 1 năm 1943) là con gái thứ ba của Nữ vương Juliana và Vương tế Bernhard. Với
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
**Willem II của Hà Lan** (Willem Frederik George Lodewijk van Oranje-Nassau) (6 tháng 12 năm 1792 - 17 tháng 3 năm 1849) là vua của Hà Lan, Đại công tước của Luxembourg, và Công tước