✨Thái Quang Hoàng

Thái Quang Hoàng

Thái Quang Hoàng (1918 – 1993) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị của Quân đội Pháp mở ra ở miền Bắc Việt Nam với mục đích đào tạo thí sinh trên toàn thuộc địa Đông Dương trở thành sĩ quan, phục vụ cho Quân đội Thuộc địa Pháp và Quân đội Liên hiệp Pháp sau này. Ông là một trong số ít sĩ quan được thăng cấp tướng ở thời kỳ Đệ Nhất Cộng hòa. Ông từng bị các sĩ quan chỉ huy cuộc Đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960 bắt giữ làm con tin để đào thoát sang Campuchia.

Tiểu sử và Binh nghiệp

Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1918 trong một gia đình Nho giáo có truyền thống hiếu học tại Huế, Thừa Thiên, miền Trung Việt Nam. Ông còn có tên khác là Thái Quang Hoằng tự Tuyên Văn. Thời niên thiếu ông học phổ thông các cấp ở Huế. Năm 1939, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp ở trường Trường Quốc học Huế với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó, ông được bổ dụng làm Công chức tại Huế một thời gian trước khi gia nhập quân đội.

Quân đội Pháp

Đầu năm 1941 ông nhập ngũ vào Quân đội Pháp, theo học tại trường Võ bị Tông, Sơn Tây. Sau một năm, ông mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Ra trường, ông được điều động đi phục vụ trong một đơn vị Bộ binh thuộc Quân đội Thuộc địa Pháp với chức vụ Trung đội trưởng. Năm 1944 ông được thăng cấp Thiếu úy tại nhiệm. Bấy giờ, tại Huế chỉ có hai người Việt mang lon Thiếu úy là ông và ông Phan Tử Lăng. Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, Phan Tử Lăng được đưa vào Lực lượng Bảo an Trung Kỳ tham gia Việt Minh. Còn ông thì giải tán đơn vị và trở về nhà.

Quân đội Liên hiệp Pháp

Năm 1946 khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, ông tái ngũ và được thăng cấp Trung úy. Năm 1947, ông chuyển sang phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Năm 1948, ông được cử giữ chức vụ Giám đốc Binh sĩ Cuộc ở Huế. Tháng 12 cùng năm, ông được thăng cấp Đại úy, giữ chức vụ Trưởng phòng 3 Việt binh Đoàn ở Huế. Tại đây ông đã kết bạn với một Đại úy trẻ người Việt khác tên là Đỗ Mậu giữ chức vụ Tham mưu phó Việt binh đoàn. Chính tướng Đỗ Mậu về sau ghi nhận rất cảm phục ông khi "dám sỉ vả một Trung tá người Pháp đang giữ chức Trưởng phái bộ Quân sự, cố vấn cho Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ".

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Năm 1950 ông được chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Quốc gia thuộc Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại làm Tổng Chỉ huy. Đầu năm 1954 ông rời Việt binh đoàn ở Huế chuyển đi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 603 Khinh quân, đồn trú tại Phan Rang. Ngày 1 tháng 7 năm 1954, ông được thăng cấp Thiếu tá do sự vận động của Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ, Tư lệnh Phân khu Duyên Hải.

Sau khi Chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước giữ chức vụ Thủ tướng, mâu thuẫn giữa tân Thủ tướng và Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh nhanh chóng bùng nổ. Tướng Hinh lên kế hoạch đảo chính Thủ tướng Diệm nhưng bất thành. Được sự vận động của Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ, bấy giờ là Tư lệnh Phân khu Duyên hải, ông đã đem 700 quân rút vào vùng rừng núi Sầu Đâu, cách Phan Rang khoảng 10 cây số để lập Chiến khu Đông, chống lại tướng Nguyễn Văn Hinh, biểu lộ thái độ ủng hộ Thủ tướng Diệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Quan lộ thăng tiến

Sau khi âm mưu đảo chính bất thành, tướng Hinh buộc phải rời bỏ chức vụ và phải sang Pháp, ông được Thủ tướng Diệm triệu hồi về và ra lệnh giải tán chiến khu Đông để về giữ chức vụ Tỉnh trưởng Ninh Thuận. Đầu năm 1955, ông được bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng Bình Thuận thay thế ông Lưu Bá Châm. Tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và giữ vai trò Quốc trưởng, ông được thăng cấp Trung tá bàn giao tỉnh Bình Thuận lại cho Trung tá Phan Xuân Nhuận để đi du học lớp Tham mưu trưởng tại Trường Tham mưu Paris ở Pháp.

Đầu năm 1956 mãn khóa học về nước, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Đệ Tứ Quân khu Nam Cao nguyên thay thế Đại tá Linh Quang Viên. Giữa năm ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Ngày 1 tháng 9 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Đệ Nhị Quân khu Trung Việt. Ngày 10 tháng 12 cuối năm ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Ngày 1 tháng 6 năm 1957 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I tân lập. Trung tuần tháng 10 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn I lại cho Trung tướng Trần Văn Đôn để về Bộ Tổng tham mưu chờ nhận nhiệm vụ mới. Tháng 8 năm 1958 ông được cử đi tu nghiệp lớp tham mưu cao cấp (khóa 1958-2) ở Đại học Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Hoa Kỳ. Đầu năm 1959 về nước, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III tân lập. Giữa tháng 4 cùng năm kiêm Tư lệnh Quân khu Thủ đô thay thế Trung tướng Dương Văn Minh được cử làm Tổng Thư ký Thường trực Bộ Quốc phòng. Tháng 10 cùng năm, ông bàn giao Quân đoàn III cho Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ, chỉ còn đảm trách Quân khu Thủ đô.

Bị thất sủng

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, cuộc đảo chính quân sự lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu đã nổ ra. Quân đảo chính lợi dụng bất ngờ đã chiếm giữ được một số vị trí quan trọng, kiểm soát được Quân khu Thủ đô và bao vây Dinh Độc Lập. Ông bị các chỉ huy đảo chính bắt giữ và đưa về Bộ Tổng Tham mưu quản thúc trong căn nhà dùng làm Trung tâm Hành quân của cuộc đảo chánh.

Tuy nhiên, cuộc đảo chính nhanh chóng bất thành. Nhóm sĩ quan chỉ huy đảo chính đã cướp máy bay, ép Đại úy phi công Phan Phụng Tiên lái máy bay để đào thoát sang Campuchia. Họ cũng đã bắt ông theo để làm con tin. Tuy nhiên, Tổng thống Diệm đã thất vọng và cáo buộc ông không đủ năng lực để phản ứng với cuộc đảo chính. Vì thế, tháng 11 năm 1961 chính quyền đã điều chuyển ông sang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự kiêm Quân trấn trưởng Đà Lạt thay thế Trung tướng Trần Văn Minh sau khi bàn giao Biệt khu Thủ đô lại cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Là. Đây là một chức vụ hữu danh vô thực và không thực quyền cầm quân.

Từ sau sự việc này, ông trở nên an phận và không tham gia bất kỳ ý định chính trị nào. Chính vì thế, khi các tướng lĩnh thực hiện cuộc đảo chính 1963, ông đã không giữ bất cứ vai trò nào. Tuy vậy, khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc Chỉnh lý, để loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của các "tướng già", ông đã được tướng Khánh điều vào chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan từ tháng 11 năm 1963 sau khi bàn giao trường Đại học Quân sự lại cho Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 1964, ông lại được triệu hồi về để "ngồi chơi xơi nước". "Người hùng" của cuộc đảo chính năm 1963, tướng Dương Văn Minh, sang Thái Lan thay chức vụ của ông. Tháng 8 năm 1965, ông nhận được quyết định giải ngũ khi mới 45 tuổi.

Vĩ thanh

Năm 1967 ông tham gia liên danh với các cựu tướng lĩnh như Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Chuân, Lê Văn Nghiêm, Tôn Thất Xứng... ra tranh cử Thượng viện. Tuy nhiên ông bị thất cử. Từ đó ông sống thầm lặng.

1975

Ngày 30 tháng 4 ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam, rồi sang định cư tại Tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ. Sau đó, ông và gia đình di chuyển sang Tiểu bang Texas hành nghề kim hoàn kiếm sống và dần trở thành Giám đốc một công ty tư nhân chuyên về nữ trang tại Arlington, Texas.

Ngày 22 tháng 2 năm 1993, ông từ trần vì bệnh ung thư tại nơi định cư, hưởng thọ 75 tuổi.

Nhận định

:Tướng Thái Quang Hoàng là người ít nói nhưng khí phách và can trường. Ông có một đức tính hiếm hoi là không bao giờ nói xấu ai với cấp trên. Thái độ quân tử nhiều khi vô lý của Thái Quang Hoàng đã làm cho tướng Lê Văn Tỵ phải bực mình...

Gia đình

*Bào đệ: Thái Quang Chức (Nguyên Trung tá thuộc Quân chủng Hải quân VNCH) ** Thực tế Thái Quang Chức là chiến sĩ tình báo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông được cài vào hàng ngũ lãnh đạo đối phương

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thái Quang Hoàng** (1918 – 1993) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị của Quân đội
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ
**Tống Quang Tông** (chữ Hán: 宋光宗, 30 tháng 9, 1147 - 17 tháng 9, 1200), thụy hiệu **Tuần Đạo Hiến Nhân Minh Công Mậu Đức Ôn Văn Thuận Vũ Thánh Triết Từ Hiếu hoàng đế**
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Thái thượng hoàng** (chữ Hán: 太上皇), cũng gọi **Thái thượng hoàng đế** (太上皇帝), giản xưng **Thượng Hoàng** (上皇), là một tước vị mang ý nghĩa là _"Hoàng đế bề trên"_, địa vị cơ bản được
**Lã Quang** () (337–400), tên tự **Thế Minh** (世明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Lương Ý Vũ Đế** ((後)涼懿武帝), là hoàng đế khai quốc của nước Hậu Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Điện Thái Hòa** (chữ Hán: 太和殿) là cung điện nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế, là nơi đăng quang của 13 vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại. Trong
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Thanh Tuyên Tông** (chữ Hán: 清宣宗, 16 tháng 9 năm 1782 – 26 tháng 2 năm 1850), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 8 của triều đại
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Minh Quang Tông** (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Lý Nhật Quang** (chữ Hán: 李日㫕) (995-1057) là một hoàng tử và quan nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhân dân vùng Nghệ Tĩnh tôn làm bậc Thánh và lập đền thờ
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Thành Thái** (chữ Hán: 成泰 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Bửu Lân** (阮福寶嶙), là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Mẫn Thái hậu Nguyễn thị** (chữ Hán: 愍太后 阮氏, ? - 1799), là vợ thứ Thái tử Lê Duy Vĩ, mẹ Mẫn đế Lê Chiêu Thống, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Thái hậu** (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: _Queen Dowager_, _Queen Mother_, _Empress Dowager_ hoặc _Empress Mother_) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
nhỏ|284x284px|Hoàng thất Nhật Bản năm 2013 **Hoàng thất Nhật Bản** (kanji: 皇室, rōmaji: _kōshitsu_, phiên âm Hán-Việt: _Hoàng Thất_) là tập hợp những thành viên trong đại gia đình của đương kim Thiên hoàng. Theo
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Huy Tư Hoàng phi** (chữ Hán: 徽思皇妃, ?-1359), họ Trần, vốn ban đầu mang họ Lê, còn được biết đến với danh hiệu **Chiêu Từ Hoàng thái hậu** (昭慈皇太后), là một phi tần của Trần
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Bảo tàng Quang Trung** là một bảo tàng nằm ở Khối 1, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam, đối diện sông Côn, bao quanh bởi đường tỉnh lộ 636,
Lá cây: nơi thực hiện quá trình quang hợp ở thực vật. **Quang tổng hợp** hay gọi tắt là **quang hợp** là quá trình thu nhận và chuyển hóa năng lượng ánh sáng Mặt trời
(6 tháng 2 năm 885 – 23 tháng 10 năm 930) là vị thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông trị vì từ năm 897 đến 930,
là vị Thiên hoàng thứ 30 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại của ông kéo dài từ năm 572 đến năm 585, tổng cộng 13 năm. Tước hiệu khi
**Chế độ quân chủ Thái Lan** (với vua được gọi là **Quốc vương Thái Lan**, **vua Thái** hoặc **vua Xiêm** trong một số giai đoạn lịch sử) đề cập đến chế độ quân chủ lập
**Xứ Thái** (tiếng Thái: _Chau Thai_; tiếng Pháp: _Pays Taï_), hoặc **Khu Tự trị Thái** (tiếng Thái: สิบสองจุไทย (Mười hai xứ Thái); tiếng Pháp: _Territoire autonome Taï_, **TAT**) là một lãnh địa tự trị tồn
**Biểu tình Thái Bình 1997** (còn được biết đến với tên gọi **Sự kiện Thái Bình**) là một cuộc biểu tình của 43.000 nông dân dưới sự lãnh đạo của nhóm cựu chiến binh –