✨Thạch Liêm Đại Sán

Thạch Liêm Đại Sán

Thạch Liêm Đại Sán (chữ Hán: 石濂大汕, 1633 - 1704) còn có tên là Thích Đại Sán (釋大汕), hiệu Đại Sán Hán Ông, tục gọi Thạch Đầu Đà (石頭陀); là một thiền sư Trung Quốc, đời thứ 29, tông Tào Động.

Thân thế và hành trạng

Thiền sư Thạch Liêm là người Giang Tây (Trung Quốc). Sư sở trường về nhiều môn: học vấn, thi văn, hội họa, chữ viết, thiên văn, địa dư, toán số, thủ công.... Về sau, khi đề tựa tập thơ Ly Lục Đường Tập của Sư, Mao Tế Khả đã viết: :"Trượng nhân là bậc bác nhã khôi kỳ, càng sở trường về thi ca; cho đến các môn như tinh tượng, lịch luật, diễn xạ, lý số, triện lệ, đơn thanh, môn nào cũng siêu việt."

Tuy nhiên, sư không chịu ra làm quan, lại từ biệt mẹ già, cắt tóc đi tu khi còn trẻ, rồi vân du khắp nơi. Sư là đệ tử của Thiền sư Giác Lãng Đạo Thịnh thuộc Tông Tào Động- Thọ Xương Pháp Phái, khi ấy đang trụ trì tại chùa Thượng Lam. Lúc bấy giờ là cuối đời nhà Minh.

Năm sư 26 tuổi, thầy Giác Lãng qua đời, sư tiếp tục tu học, rồi đến làm giảng sư chùa Trường Thọ ở Quảng Đông do Thiền sư Thực Hành làm trú trì. Đến khi vị sư này viên tịch, sư được thừa kế. Nhờ tài hội họa và kiến trúc sẵn có, sư đã biến ngôi chùa này thành một danh thắng của Quảng Đông (Trung Quốc).

Lúc bấy giờ, ở xứ Đàng Trong thuộc Đại Việt (nay là Việt Nam) có chúa Nguyễn Phúc Trăn (ở ngôi chúa: 1687 – 1691) muốn thỉnh danh tăng từ Trung Quốc sang để hoằng dương Phật pháp, và người được cử đi là Hòa thượng Nguyên Thiều. Nghe tiếng, vị Hòa thường này tìm gặp Sư, nhưng vì một lý do nào đó mà sư không nhận lời. Tuy nhiên, sư có cho một đệ tử của mình là Thiền sư Hưng Liên sang, và về sau được chúa Nguyễn trọng dụng tôn làm Quốc sư . Một thời gian sau, chúa Nguyễn lại cử người sang mời, nhưng sư vẫn chưa thể đi được .

Mãi đến năm 1694, khi ấy đã 61 tuổi, sư mới nhận lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu (kế nghiệp chúa Nguyễn Phúc Trăn, ở ngôi chúa: 1691 – 1725). Sách Lịch sử xứ Đàng Trong (tập 1) chép: :"Năm Giáp Tuất (1694), chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử hai vị sư qua Quảng Đông thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm, có kèm theo bức thư thỉnh cầu của thiền sư Hưng Liên. Dịp này, sư mới quyết định qua Đàng Trong..."

Cùng đi với sư có độ một trăm người, trong đó hơn phân nửa là tăng chúng, đi trên hai chiếc thuyền buôn mang theo rất nhiều pháp khí, kinh tượng . Sư khởi hành sang Đại Việt ngày 15 tháng giêng năm Ất Hợi (1695), niên hiệu Khang Hy thứ ba mươi tư. Đến ngày 28 tháng ấy, sư đến Thuận Hóa, và ra mắt chúa Nguyễn ngày mùng 1 tháng Hai cùng năm.

Trong thời gian lưu trú tại đây, sư tổ chức giới đàn ở chùa Thiền Lâm (từ mồng 1 đến ngày 12 tháng 4 âm lịch năm Ất Hợi, 1695), và giới đàn chùa Di Đà ở Hội An (ngày mồng 7 tháng 7 âm lịch năm ấy). Cả hai đều có rất đông tăng chúng đến dự. nhỏ|200x200px|Chùa Thiên Mụ - Cố đô Huế|tráiXong việc, Thiền sư Thạch Liêm định về nước ngay, nhưng vì gió bão cản trở nên phải lưu lại. Từ Hội An, sư được chúa Nguyễn Phúc Chu cho người vào đón ra chùa Thiên Mụ để dưỡng nhàn, đồng thời dạy đệ tử và thường vời vào cung thưa hỏi đạo lý. Ngoài ra những thân hào nhân sĩ trong nước, hoặc trực tiếp hỏi đạo lý, hoặc gián tiếp đưa thơ hỏi đạo và văn chương khá nhiều . Tuy nhiên, theo sách Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (tập 1), thì sư không ngụ trong chùa Thiên Mụ mà ra phía sau ngôi chùa này, lập phương trượng riêng để ở, và sau này trở thành chùa Khánh Vân .

Sư ở nơi ấy cho đến ngày 24 tháng 6 âm lịch năm Bính Tý (22 tháng 7 năm 1696) mới xuống thuyền về Quảng Đông. Về nước, có người ghen ghét, cho rằng sư là người "ngạo mạn, dối trá, buôn lậu, v.v..." nên bị quan Án sát Quảng Đông là Hứa Tự Hưng bắt giam tra hỏi, rồi đuổi về Cống Châu (Giang Tây). Lúc bấy giờ là năm 1702.

Ở Cống Châu, sư lại mở đạo tràng ở chùa Sơn Tự, tăng đồ quy tụ rất đông. Thấy đạo tràng ngày một lớn lao, quan sở tại là Tuần phủ Giang Tây lại cho bắt sư áp giải về nguyên quán. Thiền sư Thạch Liêm mất trên đường đi. Đó là vào năm 1704, thọ 71 tuổi.

Tác phẩm

nhỏ|227x227px *Ly Lục Đường Tập* (tập thơ) Kim Cương Trực Sớ: tác phẩm Phật học, từng là sách gối đầu giường của nhiều thế hệ Phật tử miền Nam Việt Nam Hộ pháp Kim Thang Thư: sách mỏng, chỉ bày cách tu tập cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Hải Ngoại Kỷ Sự**: gồm 6 quyển, viết sau chuyến thăm Phú Xuân năm 1695. Đây là tác phẩm của người Trung Quốc có nói đến hoạt động của triều đình chúa Nguyễn, và chủ quyền của vương triều ấy tại Hoàng Sa và Trường Sa (tức là Vạn Lý Trường Sa theo cách gọi của người Việt và người nước ngoài thời bấy giờ). Nguyên bản in sách cổ này hiện còn được lưu giữ tại Đông Dương Văn khố Nhật Bản và Quốc lập Trung ương đồ thư quán Trung Hoa. Thượng Hải Tiến bộ thư cục tuyển đã tuyển chọn cuốn sách này vào bộ Bút ký tiểu thuyết đại quan trong đó có đoạn giới thiệu như sau: :

"Sách này do Đại Sán Hán ông đời nhà Thanh soạn, tất cả sáu quyển. Khang Hy năm Giáp Tuất, đáp ứng lời mời của Việt vương, ông đi qua Quảng Nam; những nơi trải qua, sơn xuyên, hình thế, phong thổ, tập tục ông đều ghi chép tất cả, xen lẫn những thơ văn rất tao nhã hứng thú. Ông chính là một ẩn giả lánh mình trong cửa thiền vậy. Cừu Triệu Ngao bảo sách này gồm có cái hay của Đỗ Thiếu Lăng, Liễu Tứ Hậu, có thể bổ khuyết những điều mà các sách Sơn Hải Kinh, Hải Chí, Chức Phương Ký, Vương Hội Đồ chưa từng chép đến...."

Tư tưởng thiền học

Tư tưởng thiền học của Thiền sư Thạch Liêm có thể diễn tả bằng ba công thức: thiền tịnh song tu, Nho Phật nhất trí và Lâm Tào tổng hợp. Đây cũng là xu hướng chung của Thiền tông và giới Phật giáo Trung Quốc vào đời Minh-Thanh. *Thiền Tịnh Song Tu*: Thiền tông và Tịnh độ tông được phối hợp làm một, và Tịnh độ trở thành một phương pháp hành thiền giản dị mà đại chúng có thể tu tập được. Phật A Di Đà trở thành tự tính của mọi người, thấy được Phật A Di Đà tức là thấy được tự tính của chính mình. Đây là xu hướng chung của Thiền tông đời Minh và được cực lực chủ trương bỏi các vị Thiền sư như Vân Thê Châu Hoằng, Hám Sơn Đức Thanh, Thạch Liêm sống trong thời đại này nên cũng chịu sự ảnh hưởng từ xu hướng đó. Nho Phật nhất trí**: sư có kiến thức vững vàng về Nho học. Ý tưởng Nho Phật nhất trí của sư được thấy rõ trong hai câu đối đề tại chùa Thiền Lâm năm 1695, khi giời đàn được thiết lập tại đây. Hai câu đối ấy như sau: :Thích thị trì luật, nho giả lý trung, tổng yéu tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội, nghĩa phương hồ ngoại; :Quân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đồng quy kiến tính minh tâm, đoan do giới thận bất đổ, khủng cụ bất văn. Nghĩa là:: :''Phật gia trì giới, nho giả lý trung, cốt ở thành ý tu thân, tự nhiên ngoài có nghĩa phương, trong có chính trực; :Quân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đều về minh tâm kiến tính, cũng vì răn nơi chẳng thấy, sợ chỗ chẳng nghe.

Ý tưởng trên còn thể hiện rõ trong phần đầu của lá thư "Hộ pháp Kim thang" mà sư đã viết tặng chúa Nguyễn Phúc Chu ngày chúa thụ giới Bồ Tát. Ngoài ra, trong bản điều trần dâng lên chúa Nguyễn, sư đề nghị bốn điều, trong đó có điều thứ tư là mở trường để đào tạo nhân tài. Sư đề nghị "dựng nhà quốc học, tôn thờ Khổng Thánh, tàng trữ sách Nho giáo và mời các nhà lý học danh nho ra làm thầy để giảng minh đạo Thánh"...

*Lâm Tào tổng hợp: những đặc tính của thiền phái Tào Động như nguyên tắc Động Sơn Ngũ Vị, Thiền Mặc Chiếu, v.v... không thấy nhắc đến trong thiền ngữ và thi văn của Thạch Liêm. Trái lại trong lúc chỉ dẫn cách tu cho đệ tử, sư hay nêu ra thoại đầu và công án rất thịnh hành trong phái Lâm Tế. Ví dụ trong Hộ pháp Kim Thang Thư viết cho chúa Nguyễn Phúc Chu, ông đề nghị chúa tham khảo thoại đầu Ai là chủ nhân của ta? (Như hà thị ngã chủ nhân công)...".... Đây là điều dễ hiểu bởi Thiền Mặc Chiếu đã thất truyền ở Trung Quốc từ cuối đời Nguyên và chỉ còn bên Nhật Bản nên thiền công án thoại đầu đã trở thành phương thức tu tập chung cho cả tông Lâm Tế và Tào Động ở Trung Quốc bắt đầu từ đời Minh. Thạch Liêm sống vào cuối thời Minh nên ông cũng chịu ảnh hưởng từ Thiền công án thoại đầu. Điều này được chứng minh qua những vị Thiền sư cùng môn phái đi trước ông như Giác Lãng Đạo Thịnh, Hối Đài Nguyên Cảnh, Vô Minh Huệ Kinh cũng ngộ đạo nhờ tham công án thoại đầu.

Nhận định

nhỏ|200x200px Theo GS. Nguyễn Lang trong sách Việt Nam Phật giáo sử luận (tập 2), thì: :"Thạch Liêm là một nhà sư và là một nghệ sĩ đa tài. Sư giao thiệp thân mật với hầu hết các văn nhân nổi tiếng đương thời. Cũng vì tiếng tăm lừng lẫy, cộng thêm tính cương trực và ưa nói thẳng của sư, nên có nhiều người ghen ghét và chống đối sư kịch liệt... Phần tư tưởng thièn học của Thạch Liêm không có gì đặc biệt và sâu sắc lắm. So với các thiền sư như Hương Hải, Chân Nguyên, ta thấy kinh nghiệm tu chứng của Thạch Liêm không được vững chãi bằng. Như trên đã nói, Thạch Liêm, trên hết là một nghệ sĩ..."

Trích nhận xét của Thích Tâm Hải, tác giả quyển Phật học cơ bản (tập 3): :"Tại xứ Đàng Trong, có lẽ người đầu tiên mang dòng thiền Tào Động đến là Quốc sư Hưng Liên tại chùa Tam Thai, Quảng Nam. Tuy nhiên, người đã làm cho nó trở nên thịnh là ngài Thạch Liêm. Ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến nước ta (Thuận Hóa, tức Huế) vào năm 1695, tổ chức đại giới đàn truyền giới cho nhiều người xuất gia và tại gia. Chúa Nguyễn Phúc Chu và nhiều hoàng thân quốc thích của chúa thọ giới Bồ tát tại đây. Về mặt tư tưởng Thiền, ngài Thạch Liêm không mang đến những tư tưởng gì mới, Ngài xiển dương phương pháp Thiền-Tịnh song tu, vốn là truyền thống của Phật giáo nước ta. Tuy nhiên, tư tưởng đưa đạo vào đời thì được ủng hộ mạnh mẽ, điều đó được thể hiện qua con người của chúa Nguyễn Phúc Chu, đệ tử của Ngài...Về truyền thừa thì dường như dòng thiền này không có duyên lắm với xứ Đàng Trong, không thấy nhắc đến các thế hệ tiếp sau thời chúa Nguyễn Phúc Chu..."

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thạch Liêm Đại Sán** (chữ Hán: 石濂大汕, 1633 - 1704) còn có tên là **Thích Đại Sán** (釋大汕), hiệu **Đại Sán Hán Ông**, tục gọi **Thạch Đầu Đà** (石頭陀); là một thiền sư Trung Quốc,
**Viện Đại học Melbourne** hay **Đại học Melbourne** (tiếng Anh: _The University of Melbourne_, hay còn gọi là _Melbourne University_, _Melbourne Uni_, _Melbourne_, hay _UniMelb_) là một viện đại học công lập ở Melbourne, Victoria,
**Nguyễn Cơ Thạch** (tên khai sinh là **Phạm Văn Cương**, 15 tháng 5 năm 1921 – 10 tháng 4 năm 1998) là một chính trị gia, nhà ngoại giao Việt Nam. Ông nguyên là Ủy
**Nam Từ Liêm** là một quận nội thành cũ nằm ở phía tây thành phố Hà Nội, Việt Nam. Nam Từ Liêm là quận có nhiều công trình kiến trúc hiện đại và quan trọng
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Thời đại Đồ đá** hay **Paleolithic** là một thời kỳ tiền sử kéo dài mà trong giai đoạn này đá đã được sử dụng rộng rãi để tạo ra các công cụ có cạnh sắc,
Tập san _Sử Địa_ số cuối cùng, 1975 **_Tập san Sử Địa_** là một tập san học thuật sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
_[[Chiếu dời đô_ – bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.|thế=]] nhỏ|330x330px|Một góc phố Hà Nội đêm 10 tháng 10 năm 2010 **Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Bảo Đại** (chữ Hán: , 22 tháng 10 năm 1913 – 31 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc (Phước) Vĩnh Thụy** (), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị
## Lịch sử hình thành Trường Đại học Hoà Bình được thành lập theo Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 28/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, Trường đã có 9 Khoa đảm đương các
**_Đại Nam liệt truyện_** (chữ Hán: 大南列傳) là một bộ sách lịch sử ghi chép về gia phả nhà Nguyễn, các sự tích, công trạng của các công thần, liệt nữ và danh tăng,... viết
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Lê Anh Tuấn** (sinh ngày 23 tháng 2 năm 1976) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV, Phó
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa VII có nhiệm kỳ từ năm 1991 đến năm 1996 gồm 146 ủy viên chính thức, không có
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1982 đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa V (1982-1986) gồm 116 ủy viên chính
**Vô Minh Huệ Kinh** (zh. 無明慧經, ja. _Mumyō Ekyō_, 1547-1617) là Thiền sư Trung Quốc đời Minh, thuộc đời thứ 26 tông Tào Động, pháp tử duy nhất của Thiền sư Uẩn Không Thường Trung.
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Đại lộ Thăng Long** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.03**, hay còn gọi là **đường cao tốc Láng – Hòa Lạc**) là tuyến đường thuộc đường cao tốc Hà Nội – Hòa Bình – Sơn
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
**Đặng Đại Độ** (1728-1765) là vị danh thần dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam, thuộc dòng dõi Quốc công Đặng Tất. ## Tiểu sử Đặng Đại Độ sinh ra trong
**Thời đại quân phiệt** là một giai đoạn trong lịch sử Trung Hoa Dân quốc khi quyền kiểm soát đất nước bị phân chia giữa các bè cánh quân sự cũ thuộc Quân đội Bắc
**Du Đại Du** (chữ Hán: 俞大猷, 1503 – 1580), tự **Chí Phụ**, tự khác **Tốn Nghiêu**, hiệu **Hư Giang**, hộ tịch là huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu, Phúc Kiến, nguyên tịch là huyện Hoắc
**Thạch Lặc** (chữ Hán: 石勒; 274 – 333) là vua khai quốc nước Hậu Triệu thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, người dân tộc Yết (một sắc dân nhỏ thuộc
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**Thạch Tu** (石修), tên thật là **Trần Thạc Tu** (陳碩修), tên tiếng Anh là **Bill** (Chan Shek Sau) sinh ngày 21/11/1947, ông là một trong những diễn viên trụ cột của đài truyền hình TVB
Thiền sư **Nguyên Thiều** (chữ Hán: 元韶, 1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, nhưng sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông
**Lệ Thủy** là một huyện cũ thuộc tỉnh Quảng Bình(cũ), Việt Nam. ## Vị trí địa lý Huyện Lệ Thủy nằm ở phía nam của tỉnh Quảng Bình(cũ), có vị trí địa lý: *Phía đông
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Sơn Động** là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Sơn Động nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Giang, nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 75 km về phía
**Hòa Thân** (tiếng Trung: 和珅, bính âm: Héshēn; ; 1 tháng 7 năm 1750 - 22 tháng 2 năm 1799), còn được gọi là **Hòa Khôn**, tự **Trí Trai** (致齋),, hiệu **Gia Nhạc Đường** (嘉樂堂),
**Tử Cấm Thành** () là một khu phức hợp cung điện ở khu Đông Thành thuộc Bắc Kinh, Trung Quốc, với tổng diện tích 720.000 mét vuông (180 mẫu). Dù là khu phức hợp cung
**Nghệ sĩ chèo ở Việt Nam** là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu chèo, gồm những nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các nhà hát chèo và các nghệ nhân không
**Jericho** ); là một thành phố nằm gần Sông Jordan ở Bờ Tây thuộc các vùng lãnh thổ Palestine. Đây là thủ phủ của tỉnh Jericho và có số dân trên 20.000 người. Nằm ở
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**Cá mập miệng bản lề màu hung** (_Nebrius ferrugineus_) là một loài cá mập thảm thuộc họ Ginglymostomatidae và là loài duy nhất còn tồn tại của chi _Nebrius_. Chúng được tìm thấy rộng rãi
**Đường vành đai 3 Hà Nội** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.37**) là một đoạn đường vành đai thuộc hệ thống đường cao tốc Việt Nam và tuyến giao thông đường bộ quan trọng của
**Thành ủy (Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố_)_ Hà Nội** là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ thành phố Hà Nội giữa hai kỳ Đại hội, có chức năng lãnh đạo
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Nhà Lê** (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝, Hán Việt: _Lê triều_), hay còn được gọi là **nhà Tiền Lê** (chữ Nôm: 家前黎, Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: _Tiền Lê triều_) là một triều đại