✨Tàu ngầm hạm đội

Tàu ngầm hạm đội

thumb|Tàu ngầm hạm đội
Tàu ngầm hạm đội là một tàu ngầm có đủ tốc độ, tầm xa hoạt động và dự trữ tiếp liệu để có thể hoạt động trong thành phần một hạm đội hải quân. Những ví dụ về tàu ngầm hạm đội bao gồm Tàu ngầm lớp K Anh thời Chiến tranh Thế giới thứ nhất và các và của Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Tên gọi này tiếp tục tồn tại cùng Hải quân Hoàng gia Anh cho những tàu ngầm tấn công chạy năng lượng hạt nhân hiện đại của họ. Đối với Hải quân Hoa Kỳ, tên gọi này chủ yếu dùng để chỉ những tàu ngầm hoạt động tầm xa phục vụ trong Thế Chiến II.

Những ví dụ

Hoa Kỳ

Thuật ngữ "Tàu ngầm hạm đội" được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng để chỉ những tàu ngầm phù hợp để tuần tra tầm xa tại Thái Bình Dương, phân biệt với những lớp trước đó như Tàu ngầm lớp S Hoa Kỳ. Mục tiêu ban đầu là tạo ra một tàu ngầm đạt được tốc độ trên mặt nước để hoạt động cùng những thiết giáp hạm tiêu chuẩn của hạm đội. Phần lớn trong số chín chiếc "V-boat" hạ thủy trong giai đoạn 1924–1933 (V-1 đến V-6) đều nhằm tạo ra một tàu ngầm hạm đội hoặc tàu ngầm tuần dương tầm xa. Cuối cùng, một tầm xa hoạt động kết hợp với tốc độ cao được bắt đầu từ hạ thủy năm 1938, cho phép hoạt động tận vùng biển nhà Nhật Bản từ căn cứ Trân Châu Cảng.

Những tiêu chí này trở nên quan trọng trong chiến tranh đánh phá tàu buôn tại Thái Bình Dương trong Thế Chiến II, nhưng Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế bị cấm bởi Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đã loại trừ sự phát triển trong lĩnh vực này. Cho dù được xem là sự phát triển toàn vẹn của kiểu tàu này, các , , và dẫn trước là những kiểu nguyên mẫu được cải thiện dần dần, khác biệt đáng kể so với hai tàu ngầm duyên hải đương thời. Lớp Tambor được phát triển đầy đủ và tương đương với lớp Gato, ngoại trừ độ sâu lặn tối đa và việc phân chia phòng động cơ thành hai ngăn riêng biệt.

Nhật Bản

Những (I-boat) của Đế quốc Nhật Bản mang khái niệm tầm xa tương tự, khác biệt với những chiếc "tầm trung" hay "đi biển" (Ro-boat). Dù vậy một số chiếc I-boat có các đặc tính như hầm chứa máy bay và hải pháo trên boong cỡ nòng lớn, thường gặp trên tàu ngầm tuần dương.

Anh Quốc

Để đạt được tốc độ lớn hơn trên mặt nước hầu có thể bắt kịp các tàu chiến chủ lực của hạm đội, cũng như trinh sát phía trước hạm đội và bọc sườn đối phương, Hải quân Anh thoạt tiên chọn sử dụng động cơ hơi nước. Tàu ngầm lớp K Anh đưa vào hoạt động năm 1916 có kích thước lớn vào thời đó. Cho dù đạt đến tốc độ , sự phức tạp trong việc tắt nồi hơi và thu gọn ống khói khiến chúng có tốc độ lặn chậm.

Khi vận tốc của các tàu chiến chủ lực tăng lên, sau khi hoàn tất ba chiếc tốc độ 21 knot sử dụng động cơ diesel tăng áp vào đầu thập niên 1930, Hải quân Anh từ bỏ ý tưởng về tàu ngầm hạm đội, vì kích thước cần thiết để có tốc độ và tầm xa hoạt động sẽ làm giảm độ cơ động.

Các nước khác

Các nước lục địa Châu Âu đôi khi sử dụng thuật ngữ tàu ngầm "đi biển", "tuần tra đường dài", "type 1" hay "hạng 1" để chỉ đến việc hoạt động tại Đại Tây Dương hay Ấn Độ Dương khi họ không có nhu cầu tuần tra tại Thái Bình Dương. Những tàu ngầm này thường không có tốc độ nhanh để hoạt động cùng hạm đội.

Tàu ngầm hạm đội hiện đại

thumb|Tàu ngầm hạm đội Hải quân Hoàng gia Anh tiếp tục sử dụng tên gọi tàu ngầm hạm đội cho những tàu ngầm tấn công chạy năng lượng hạt nhân hiện đại của họ để phân biệt với tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo. Các lớp tàu ngầm hiện đang phục vụ bao gồm và .

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tàu ngầm hạm đội **Tàu ngầm hạm đội** là một tàu ngầm có đủ tốc độ, tầm xa hoạt động và dự trữ tiếp liệu để có thể hoạt động trong thành phần một hạm
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**_I-70_** là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn,
**Lớp tàu ngầm _Sargo**_ bao gồm mười tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm Hoa Kỳ đầu
thumb|[[Tàu ngầm Pháp _Surcouf_ có khẩu pháo lớn nhất cho mọi tàu ngầm tuần dương.]] **Tàu ngầm tuần dương** là kiểu tàu ngầm được thiết kế để hoạt động lâu dài tại vùng biển cách
**Lớp tàu ngầm _Porpoise**_ bao gồm mười tàu ngầm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa thập niên 1930. Chúng tích hợp một số đặc tính tiên tiến vốn sẽ trở thành nền
**Lớp tàu ngầm _Salmon**_ bao gồm sáu tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối thập niên 1930. Chúng là một bước phát triển quan trọng trong khái niệm thiết kế
**Lớp tàu ngầm _Gato**_ là một lớp tàu ngầm hạm đội được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ và được hạ thủy trong giai đoạn 1941–1943; chúng là lớp tàu ngầm Hoa Kỳ đầu
**Tàu ngầm lớp _Balao**_ là một thiết kế tàu ngầm hạm đội thành công của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Với 120 chiếc được hoàn tất và đưa vào
là một lớp tàu ngầm tuần dương của Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Lớp có tổng cộng bốn thiết kế nối tiếp nhau với
**Lớp tàu ngầm _Cachalot**_ bao gồm hai tàu ngầm cỡ trung bình được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, trong phạm vi giới hạn về kích cỡ
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
**Lớp Kilo** là tên định danh của NATO chỉ một loại tàu ngầm quân sự chạy bằng diesel-điện cỡ lớn được chế tạo tại Nga. Tên gọi chính thức của Nga đặt cho lớp tàu
**Hải quân Chiến khu miền Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc** là một hạm đội của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập lần đầu cuối năm 1949. Kỳ hạm của
**Tàu ngầm lớp** **Yankee**, Liên Xô gọi là **Project 667A _Navaga**_ và **Project 667AU _Nalim_**, là các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Hải quân Liên Xô. Tổng cộng đã có
**Hạm đội Bắc Hải** là một trong ba hạm đội của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Thẩm quyền của hạm đội là khu vực Bột Hải và Hoàng Hải từ tỉnh
**Tàu ngầm lớp Echo** là lớp tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình của Hải quân Liên Xô những năm 1960. Định danh của Liên Xô cho tàu ngầm đầu tiên thuộc loại
**_U-430_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Đức chế tạo cho Hải quân Ý trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Ý
**_U-429_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Đức chế tạo cho Hải quân Ý trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Ý
**_U-428_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Đức chế tạo cho Hải quân Ý trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Ý
**Binh chủng Tàu ngầm** là một binh chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc Quân chủng Hải quân, có nhiệm vụ tiêu diệt các loại tàu ngầm, tàu nổi cũng như các phương
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
Tổng Lực lượng Hải quân châu Âu/**Hạm đội 6 Hoa Kỳ hoặc Đệ lục Hạm đội Hoa Kỳ** là một đơn vị hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ có tổng hành dinh trên Soái
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_I-184_** (nguyên mang tên **_I-84_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
**Tàu ngầm lớp Shchuka** (tiếng Nga:**Щука**) cũng được biết đến như **tàu ngầm lớp Shch** hay **tàu ngầm lớp SC** là lớp tàu ngầm hạng trung của Liên Xô được đóng với số lượng lớn
**Hạm đội Thái Bình Dương** (tiếng Nga: Тихоокеанский флот, Chuyển sang ký tự Latinh: _Tikhookeanskiy flot_, tên là Hạm đội Thái Bình Dương Banner đỏ, _Краснознамённый Тихоокеанский флот_ trong thời Xô Viết) là một phần
**_I-23_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-41_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó tham gia hoạt
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**Tàu ngầm lớp I-15** (cũng được biết đến như tàu ngầm Kiểu B1) là loại tàu ngầm có số lượng lớn nhất mà Hải quân Hoàng gia Nhật Bản từng sử dụng trong chiến tranh
nhỏ|phải|Một poster phim về tai nạn tàu ngầm Kursk **Thảm họa tàu ngầm hạt nhân Kursk** (_Kursk submarine disaster_) là vụ tai nạn kinh hoàng thảm khốc diễn ra đối với tàu ngầm Kursk (K-141)