✨Tàu con thoi Enterprise

Tàu con thoi Enterprise

nhỏ|phải|Enterprise tại SLC-6 ở [[Căn cứ không quân Vandenberg]]

Tàu con thoi _Enterprise_ (số hiệu của NASA: OV-101) là tàu con thoi đầu tiên được xây của NASA. Vì không có máy động cơ hay tấm chắn nhiệt (heat shield), NASA không thể sử dụng nó trong các sứ mệnh không gian được, thay vào đó, nó được sử dụng để thực hiện những chuyến bay thử nghiệm tàu con thoi trong khí quyển Trái Đất.

Thoạt đầu, kế hoạch là tái trang bị tàu Enterprise để trở thành tàu con thoi thứ nhì lên quỹ đạo, sau tàu Columbia. Tuy nhiên, trong thời gian xây dựng tàu Columbia, những chi tiết trong cấu trúc tàu con thoi bị thay đổi, nhất là về trọng lượng của thân và cánh tàu. Nếu sửa lại Enterprise để bay được thì cần phải tháo gỡ cả tàu và trả lại từng bộ phận một cho các hãng thầu khắp nước. Vì việc này rất tốn kém, chính phủ đã quyết định tiết kiệm bằng cách xây tàu Challenger xung quanh sườn thân tàu (có số hiệu "STA-099") đã được xây thử. Tương tự, chính phủ nghĩ đến sửa chữa lại tàu Enterprise để thay thế tàu Challenger sau khi Challenger bị phá hủy, nhưng thay vì vậy, tàu Endeavour được xây từ các phụ tùng.

Thời gian phục vụ

Tàu được bắt đầu xây ngày 4 tháng 6 năm 1974. Với số hiệu OV-101, nó mới đầu được gọi là tàu Constitution (Hiến pháp). Tuy nhiên, một cuộc vận động gửi thư làm cho chính phủ đổi tên nó để vinh danh Starship Enterprise của chương trình TV Star Trek.

Thiết kế của OV-101 khác với thiết kế của tàu Columbia (OV-102), tàu đầu tiên có khả năng bay lên vũ trụ; trong OV-101, phần đuôi có hình dạng khác, và nó không có những giao diện để gắn vào bộ Hệ thống Vận động trên Quỹ đạo (Orbital Maneuvering System, OMS). Nhiều hệ thống phụ, kể từ các động cơ chính đến thiết bị ra đa, không được cài đặt vào tàu này, nhưng có thể được cài đặt trong tương lai.

Vào mùa hè năm 1976, NASA thử ảnh hưởng của chấn động mặt đất đối với tàu con thoi, để cho các kỹ sư so sánh dữ liệu từ một tàu vũ trụ thật với các mô hình lý thuyết.

nhỏ|trái|Enterprise được kéo ra hãng sản xuất tại Palmdale với các diễn viên trong Star Trek có mặt.

Ngày 17 tháng 9 năm 1976, Enterprise được kéo ra hãng Rockwell International tại Palmdale, California. Hòa hợp với tên của tàu con thoi, người sáng tạo Star Trek Gene Roddenberry, cũng như phần nhiều diễn viên trong series đầu tiên của chương trình (trừ William Shatner, Majel Barrett, và Grace Lee Whitney), có mặt tại buổi lễ khởi đầu, và bản nhạc chủ đề của chương trình được trình bày.

Các chuyến bay thử tiến gần và hạ cánh

Ngày 31 tháng 1 năm 1977, tàu Enterprise được kéo trên đường tới Trung tâm Nghiên cứu Dryden (Dryden Flight Research Center) tại Căn cứ không quân Edwards để bắt đầu thử hoạt động.

Trong thời gian tại Dryden, NASA sử dụng tàu Enterprise trong nhiều chuyến bay trên đất và trên trời với mục đích kiểm tra những chi tiết của chương trình tàu con thoi. Thời gian chín tháng đầu tiên được gọi theo chữ ALT (Approach and Landing Test, "Kiểm tra Tiến gần và Hạ cánh"). Các chuyến thử này bao gồm một "chuyến bay" đầu tiên ngày 18 tháng 2 năm 1977 trên máy bay Boeing 747 (Shuttle Carrier Aircraft, SCA) để đo những tải cấu trúc và những đặc tính chạy và hãm của hệ thống cõng máy bay. NASA cũng thử các hệ thống phụ của tàu con thoi trên đất để kiểm tra khả năng hoạt động trước khi bay lên khí quyển.

Hệ thống Enterprise/SCA được bay thử, trong khi Enterprise không có người lái và không được mở máy. Mục đích của những chuyến bay này là để đo các đặc tính của hệ thống cõng máy bay. Sau đó, Enterprise được bay ba lần với người lái, để thử các hệ thống điều khiển bay.

Cuối cùng, tàu Enterprise được bay tự do năm lần; trong đó, tàu con thoi gỡ hẳn khỏi SCA và được phi hành gia hạ cánh. Các chuyến bay thử này kiểm tra các đặc tính bay của thiết kế tàu con thoi, và được thực hiện dưới vài hình dạng khí động lực học và trọng lượng.

Sửa soạn cho STS-1

Sau chương trình ALT, tàu Enterprise được đem đến nhiều trung tâm của NASA để thiết lập tàu trước khi thử rung động. Năm 1979, thùng xăng ngoài và các solid rocket booster (được gọi là hình dạng boilerplate) được gắn vào tàu con thoi và nó được dùng để thử hình dạng phóng lên trên bệ phóng 39A tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy. Năm 1985, nó được dùng để thử các cấu trúc dành cho tàu con thoi tại Căn cứ không quân Vandenberg; nó được thiết lập đây đủ trên bệ phóng SLC-6.

Xong việc

nhỏ|phải|Tàu Enterprise đi nghiêng vào chuyến bay ALT thứ hai, ngày [[13 tháng 9 năm 1977.]]

Vì đã thử xong những điều quan trọng, một phần của tàu Enterprise được tháo gỡ để sử dụng lại một số bộ phận trong tàu con thoi khác, rồi được trình bày ở Pháp, Đức, Ý, Vương quốc Anh, Canada, và các tiểu bang California, Alabama, và Louisiana. Nó cũng được sử dụng để kiểm tra rằng bệ phóng SLC-6 tại Căn cứ không quân Vandenberg vừa tàu con thoi. Cuối cùng, ngày 18 tháng 11 năm 1985, tàu Enterprise được chở bằng tàu tới Washington, D.C.; ở đấy Viện Smithsonian nhận tàu con thoi này.

Sau Challenger

Sau thảm họa Challenger, NASA phải chọn tàu con thoi để thay thế. Họ nghĩ đến việc tái trang bị tàu Enterprise, thêm vào các trang bị cần thiết để bay lên vũ trụ, nhưng để không tốn nhiều tiền quá, họ quyết định sử dụng những phụ tùng còn lại từ khi xây các tàu DiscoveryAtlantis để xây thêm một tàu mang tên Endeavour.

Sau Columbia

Năm 2003, sau khi tàu Columbia bị nổ lúc trở lại khí quyển, Ban Điều tra về Tai nạn Columbia (Columbia Accident Investigation Board) dời một mảnh sợi thủy tinh khỏi cánh Enterprise để thử. Cuộc thử này bao gồm bắn một miếng chất bọt với tốc độ cao vào mảnh. Mặc dù mảnh không bị vỡ do cuộc thử này, chất bọt đâm vào mảnh đủ mạnh để làm méo mó một cái niêm. Vì mảnh cacbon cốt cacbon (reinforced carbon-carbon, RCC) trên tàu Columbia yếu hơn 2,5 lần tàu Enterprise, kết quả này dẫn đến kết luận rằng lưỡi đầu bằng RCC bị vỡ. NASA hủy bỏ những cuộc thử sau về mảnh sợi thủy tinh này để tránh vỡ nó; thay vì nó, một mảnh lấy từ tàu Discovery được thử để biết ảnh hưởng của chất bọt đối với lưỡi đầu RCC cùng tuổi. Một miếng chất bọt từ thùng xăng ngoài gãy rời ra và đâm vào lưỡi đầu của cánh tay trái của Columbia khi tàu được phóng lên.

Ban Điều tra về Tai nạn Columbia kết luận rằng vụ đâm này làm một mảnh RCC trên lưỡi đầu của cánh tay trái bị thủng lỗ, để cho khí với nhiệt độ rất cao vào cánh và làm cấu trúc sụp đổ. Vụ này làm cho tàu Columbia xoay không điều khiển được và vỡ từng mảnh một, làm cho cả phi hành đoàn thiệt mạng.

nhỏ|phải|Tàu Enterprise được trình bày tại [[Trung tâm Steven F. Udvar-Hazy.]]

Ngày nay

Tàu Enterprise ở trong nhà máy bay của Viện Smithsonian tại Sân bay quốc tế Washington Dulles trước khi được chuyển sang Trung tâm Steven F. Udvar-Hazy mới mở cửa tại Viện bảo tàng Không gian và Vũ trụ Quốc gia của Viện Smithsonian tại Sân bay Dulles; ở đây nó là trung tâm của tập hợp tàu vũ trụ.

Các chuyến bay ALT

  • Phi hành đoàn của máy bay 747 (Shuttle Carrier) trong các chuyến bay thử: Fitzhugh L. Fulton, Jr., phi công Thomas C. McMurtry, phi công Louis E. Guidry, Jr., kỹ sư phi hành Victor W. Horton, kỹ sư phi hành

Phương tiện

Image:Space Shuttle Enterprise 747 takeoff.ogg|Tàu con thoi _Enterprise_ 747 cất cánh Image:Space Shuttle Enterprise 747 separation.ogv|Tàu con thoi _Enterprise_ tách khỏi máy bay 747 Image:Space Shuttle Enterprise landing.ogg|Tàu con thoi _Enterprise_ hạ cánh
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|_Enterprise_ tại SLC-6 ở [[Căn cứ không quân Vandenberg]] **Tàu con thoi _Enterprise**_ (số hiệu của NASA: **OV-101**) là tàu con thoi đầu tiên được xây của NASA. Vì không có máy động cơ hay
nhỏ|280x280px|Huy hiệu nhiệm vụ **Tiếp cận và hạ cánh thử nghiệm tàu con thoi** là một loạt các chuyến bay thử nghiệm cho các nguyên mẫu hệ thống chương trình tàu con thoi chủ yếu là tàu
Huy hiệu của tàu con thoi **Tàu con thoi** của NASA, chính thức được gọi là **Space Transportation System** (**STS**), nghĩa là "Hệ thống Chuyên chở vào Không gian", từng là phương tiện phóng tàu
**Tàu con thoi**, là một hệ thống tàu vũ trụ quỹ đạo thấp có thể tái sử dụng, được vận hành bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA). Tên chính thức
**Tàu con thoi _Columbia**_ (số hiệu của NASA: **OV-102**) là tàu đầu tiên trong phi đội tàu con thoi của NASA có khả năng bay lên vũ trụ. Chuyến bay đầu tiên của nó, STS-1,
**Crawlerway** là một con đường đôi rộng tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy ở Florida. Nó nối Tòa nhà Lắp ráp Phương tiện (VAB) với hai bệ phóng tại Tổ hợp Phóng 39. Chiều dài
**USS _Enterprise_ (CVN-65)**, trước đây từng mang ký hiệu **CVA(N)-65**, là một tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ hiện đã xuất biên chế. Nó là chiếc tàu sân bay đầu tiên chạy bằng
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân
**_Kiso_** (tiếng Nhật: 木曽) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng trong lớp _Kuma_ class, và đã từng hoạt
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**Lớp tàu tuần dương _New Orleans**_ là một lớp bao gồm bảy tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ trong những năm 1930, và là những chiếc tàu tuần dương cuối cùng
**Suzuya** (tiếng Nhật: 鈴谷 S_uzuya_) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ ba trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**Chương trình tàu vũ trụ sử dụng nhiều lần Buran** (Бура́н có nghĩa là "bão tuyết" hay "trận bão tuyết" trong tiếng Nga) được khởi động năm 1976 tại TsAGI như một đối trọng với
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_Tenryū_** (tiếng Nhật: 天龍 - Hán-Việt: Thiên Long) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc. Tên
**Lớp tàu sân bay _Yorktown**_ bao gồm ba tàu sân bay được Hoa Kỳ chế tạo, hoàn tất và đưa vào sử dụng không lâu trước Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra. Chúng
**USS _North Carolina_ (BB-55)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm hai chiếc, và là chiếc thiết giáp hạm mới đầu tiên
**Lớp tàu sân bay _Illustrious**_ bao gồm những tàu sân bay hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh và là những tàu chiến Anh Quốc quan trọng nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ
**USS _Washington_ (BB-56)**, chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong lớp _North Carolina_ vốn chỉ bao gồm hai chiếc, là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này
**USS _South Dakota_ (BB-57)** là một thiết giáp hạm được Hải quân Hoa Kỳ đưa ra hoạt động từ năm 1942 đến năm 1947. Là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, _South Dakota_ là
**USS _Alabama_ (BB-60)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc tàu chiến thứ sáu của hải quân Mỹ mang cái tên này, nhưng chỉ là chiếc
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_I-70_** là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn,
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**USS _Utah_ (BB-31)** là một thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Florida, đã bị tấn công và đánh chìm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**USS _Indiana_ (BB-58)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _South Dakota_ được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ
**_Mikuma_** (tiếng Nhật: 三隈) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong tổng số bốn chiếc thuộc lớp _Mogami_. Tên của nó được đặt
**_Junyō_** (kanji: 隼鷹, âm Hán-Việt: Chuẩn ưng, nghĩa là "đại bàng") là một tàu sân bay thuộc lớp _Hiyō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn bởi hãng _Nippon Yusen Kaisha_
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
**_Noshiro_** (tiếng Nhật: 能代) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Agano_ đã phục vụ cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó bị máy bay
**Lớp _Gerald R. Ford**_ (hay **lớp _Ford_**; trước đây gọi là **lớp CVN-21**) là một lớp tàu sân bay đang được chế tạo để thay thế các tàu sân bay lớp Nimitz hiện có của
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Aoba_ bao gồm hai chiếc. Tên của nó được đặt theo đỉnh núi Kinugasa tọa
**_Shōkaku_** (, nghĩa là _Chim hạc bay liệng_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và tên của nó được đặt cho lớp tàu này. Cùng với chiếc tàu chị
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**_Sōryū_** (tiếng Nhật: 蒼龍 _Thương Long_, có nghĩa là "rồng xanh") là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó từng tham gia trận tấn công Trân Châu Cảng, và bị
Ngày **18 tháng 2** là ngày thứ 49 trong lịch Gregory. Còn 316 ngày trong năm (317 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *1861 – Tại Montgomery, Alabama, Jefferson Davis nhậm chức tổng thống
**USS _Anderson_ (DD-411)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân
**_Star Trek: Chìm trong bóng tối_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Star Trek Into Darkness_**) là một bộ phim hành động thuộc thể loại khoa học viễn tưởng của điện ảnh Hoa Kỳ sản xuất năm
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Maury_ (DD-401)** là một tàu khu trục lớp _Gridley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**Mini Research Module 1** (Module nghiên cứu mini 1, viết tắt là MRM-1), còn được biết đến là _Docking Cargo Module_, là một module của Nga dự kiến sẽ là một thành phần của trạm
**USS _The Sullivans_ (DD-537)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
phải|_[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill_ bị tấn công bằng kamikaze do Thiếu úy Kiyoshi Ogawa điều khiển (ảnh bên dưới) và Trung úy Seizō Yasunori thực hiện vào ngày 11 tháng 5 năm 1945. Trong
**USS _Mahan_ (DD-364)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của