✨Tấm băng Greenland

Tấm băng Greenland

nhỏ|tấm băng ở Greenland Tấm băng Greenland (tiếng Đan Mạch: Grønlands indlandsis, Greenlandic: Sermersuaq) là một tấm băng rộng bao gồm 1.710.000 km vuông (660.000 dặm vuông), khoảng 80% bề mặt của đảo Greenland.

Đây là khối băng lớn thứ hai trên thế giới, sau tấm băng Nam Cực. Tấm băng dài gần 2.400 km (1.500 mi) theo hướng bắc-nam, và chiều rộng lớn nhất của nó là 1.100 km (680 dặm) ở vĩ độ 77 ° N, gần biên giới phía Bắc của nó. Độ cao trung bình của băng là . Chiều dày nói chung là hơn 2 km (1,2 dặm) và trên 3 km (1,9 dặm) ở điểm dày nhất. Đây không phải là tấm băng duy nhất của các sông băng tách biệt ở Greenland và các tảng băng nhỏ bao phủ khoảng 76.000 đến 100.000 km2 xung quanh vùng ngoại vi. Nếu toàn bộ 2.850.000 khối lập thể (684.000 cuil) băng tan, nó sẽ dẫn đến mực nước biển dâng toàn cầu tăng lên . Khối băng Greenland đôi khi được gọi dưới cái tên "ice inland", hoặc tương đương với tiếng Đan Mạch, indlandsis. Nó cũng đôi khi được gọi là một chỏm băng.

Do hiện tượng ấm lên toàn cầu, khối băng của Greenland không ngừng bị tan chảy và đang diễn ra nhanh hơn dự báo. Vào năm 2019, theo ghi nhận, lượng băng ở vùng đất này tan nhanh hơn bảy lần so với những năm 1990 . Cụ thể, Greenland đã mất 12,5 tỉ tấn băng chỉ trong vòng một ngày. Đây là sự tan chảy sông băng lớn nhất từng được ghi nhận tại Greenland cho tới thời điểm hiện tại. Sự tan chảy băng này dẫn theo nhiều hệ lụy cực kì nghiêm trọng đến môi trường sống. Tiêu biểu phải kể đến là sự tăng mực nước biển toàn cầu. Trong thế kỉ XX qua, mực nước biển đang dâng với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm trong thế kỉ XX qua. Tuy nhiên, theo một ngiên cứu mới đây, mùa hè năm 2019 nóng đỉnh điểm tới mức khiến Greenland mất 600 tỷ tấn băng một năm, cao hơn gấp đôi lượng băng tan chảy trung bình từ năm 2002 - 2019, đủ để làm mực nước biển toàn cầu dâng thêm 2,2 mm chỉ trong hai tháng. Việc mất các sông băng trên đất liền ở Greenland là nguyên nhân trực tiếp làm tăng nguy cơ lũ lụt cho hàng triệu người trên thế giới.

Trong một nghiên cứu do Đại học Bang Ohio (Mỹ) thực hiện, sự tan chảy hoàn toàn của tấm băng Greenland được dự đoán có thể làm cho mực nước biển tăng lên 7 m vào năm 3000. Với mức độ đó, đại dương sẽ nuốt chửng các thành phố ven biển trên toàn cầu chỉ trong vòng chưa tới một thế kỉ.

= Tổng quát = Sự hiện diện của băng trôi qua các lớp trầm tích bên dưới mặt nước được hồi phục ở phía Tây Bắc Greenland, ở vùng Fram Strait, và phía nam Greenland cho thấy sự hiện diện ít nhiều liên tục của một tảng băng hoặc các tảng băng bao phủ các phần đáng kể của Greenland trong 18 năm qua hàng triệu năm.

Từ 11 triệu năm trước tới 10 triệu năm trước , tảng băng của Greenland đã giảm kích thước. Tảng băng được hình thành từ giữa thế Trung Tân (Miocene) bởi sự liên kết của chỏm băng và sông băng. Mật độ các khối băng gia tăng lớn ở thời kỳ Hậu Pliocene.

Tảng băng được hình thành bởi sự nâng cao của vùng Tây Greenland và vùng Đông Greenland. Vùng núi phía đông Greenland và phía Tây Greenland thiết lập nên rìa lục địa thụ động và nó đã nâng cao lên trong 2 giai đoạn.

Từ 10 đến 5 triệu năm trước, trong kỷ nguyên Miocene. Mô phỏng máy tính đã cho ta thấy rằng quá trình nâng lên này đã tạo nên sông bằng bằng cách tạo ra mưa orographic và làm mát nhiệt độ 1 bên sườn núi. Tảng băng hình thành lâu nhất mà chúng ta biết đến hiện tại là khoảng 1,000,000 năm tuổi.

Trọng lượng của băng đang suy giảm ở vùng trung tâm Greenland; phần bề mặt tầng đất nền gần mực nước biển vượt hơn hầu hết phần đất liền của Greenland, nhưng những ngọn núi lại được tìm thấy xung quanh phần đất ngoài, giới hạn một tấm băng dọc theo rìa của nó. Nếu một ngày băng biến mất đi, Greenland đột nhiên sẽ xuất hiện ra rất nhiều đảo nhỏ, ít nhất cho đến khi đẳng tĩnh được nâng lên bề mặt đất trên mặt nước biển một lần nữa.

Bề mặt băng đạt được độ cao tốt nhất so với mặt nước biển trên hai mái vòm kéo dài theo hướng Bắc-Nam hoặc các rặng núi.. Đỉnh chỏm băng phía Nam đạt tới độ cao gần 3000 mét (10,000 ft) ở vĩ độ 63°–65°N; chỏm băng phía Bắc đạt đến độ cao 3,290 mét (10,800 ft) ở vĩ độ 72°N (điểm cao thứ 4 của Greenland)

Đỉnh của cả chỏm băng đều được dịch chuyển về phía đông của đường trung tâm Greenland. Những tảng băng trôi tự do không trôi dọc theo mặt biển Greenland, vì vậy ít có tảng băng tự do nào lớn. Bờ mép băng trôi dọc theo bờ biển , tuy nhiên, ở những khu vực có định hình khác nhau như khu vực Melville Bay phía cực nam của Thule.

Sông băng sơn cốc rộng lớn, phần nhô ra bị hạn chế của tảng băng, di chuyển dọc vùng thung lũng của biên giới xung quanh vùng rìa Greenland, nó bị vỡ ra thành những tảng băng nổi, kết quả tạo thành nhiều núi băng trôi và thỉnh thoảng được phát hiện ở phía Bắc Đại Tây Dương bởi những tàu thuyền đang ra khơi.

Sông băng sơn cốc được biết đến nhiều nhất là Jakobshavn Glacier (Greenlandic: Sermeq Kujalleq), ở điểm cuối cùng, dòng chảy đạt tốc độ từ 20-22 mét hoặc là 66–72 feet một ngày.

Nhiệt độ của những tảng băng thông thường thường thấp hơn các nơi khác của Greenland. Nhiệt độ trung bình từ −31 °C (−24 °F) ở chỏm băng phía Bắc, một phần của phía Bắc và nhiệt độ ở chóp của chỏm băng phía Nam là khoảng −20 °C (−4 °F).

= Sự thay đổi của băng = nhỏ|Bức hình được chụp bởi NASA vào mùa hạ, khi băng tan vào tháng 7/2012

Những tảng băng là nhân chứng của các khí hậu trong quá khứ

Tảng băng được hình thành từ nhiều lớp tuyết cô đọng lại hơn 100,000 năm trước, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay là bằng chứng giá trị của khí hậu trong quá khứ. Vào 1 thập kỷ trước, các nhà khoa học đã khoan một lõi băng dài khoảng 4 ki lô mét. Các nhà khoa học đã sử dụng những lõi băng đó để thu thập thông tin về nhiệt độ, thể tích đại dương, lượng mưa, thành phần hóa học và khí của hạ tầng khí quyển, phun trào núi lửa, biến đổi mặt trời, hoạt động trên bề mặt đại dương, diện tích sa mạc hoá và cháy rừng. Sự đa dạng của các hiện tượng khí hậu này lớn hơn bất kì những ghi chép tự nhiên về khí hậu khác, chẳng hạn như các vòng cây hoặc các lớp trầm tích.

Băng tan

sơ lược

nhỏ|Nhà khoa học Eric Rignot của NASA đưa dự án, ý kiến về những tảng băng của Greenland Nhiều nhà khoa học nghiên cứu về sự tan chảy của băng ở Greenland đã đưa ra kết luận rằng việc tăng nhiệt độ lên 2,3 độ sẽ dẫn đến sự tan chảy của băng Greenland và khiến cho Greenland sẽ bị chìm dưới đáy biển vào một tương lai không xa. Nằm ở vùng Bắc cực, băng của Greenland tan sẽ dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu. Thời tiết khí hậu Bắc cực dần trở nên nóng hơn và được dự đoán rằng băng của Bắc cực sẽ tan nhanh hơn. Những tảng băng Greenland đã trải qua thời kì băng tan nhanh kỷ lục trong những năm gần đây kể từ khi được lưu lại dữ liệu và nó góp phần khiến cho mực nước biển tăng lên nhanh làm những thay đổi về vòng chảy đại dương có thể xảy ra trong tương lai. Ngay những khu vực có băng bị tan đã gây ra tranh cãi trong nhiều năm qua bởi việc chúng tăng 16% tốc độ tan ở năm 1979 (khi bắt đầu lần đo đầu tiên) và năm 2002 (lần đo gần nhất). Khu vực băng tan năm 2002 đã bị gián đoạn hoàn toàn trước khi được đo lại. Vết nứt ra giữa sông băng tăng lên đáng kể ở Helheim Glacier và sông băng phía Tây Bắc Greenland vào năm 1993 và 2005. Năm 2006, ước lượng trung bình mỗi tháng thì băng ở Greenland tan 239 km3 mỗi năm. Khoa học tiến bộ, một báo cáo đưa ra rằng khối băng tan 195 km3 mỗi năm vào khoảng 2003 đến 2008. Sự đo lường này được đo từ vệ tinh quản lý vũ trụ GRACE của Mỹ (Gravity Recovery and Climate Experiment), bắt đầu năm 2002 và nguồn bài viết từ BBC.

Thông tin dữ liệu được thu thập từ ICESAT và ASTER, có một học thuyết trong Địa vật lý học (tháng 9/2008)  cho rằng gần 75% băng tan ở Greenland là nguyên nhân dẫn đến những sông băng ven biển càng trở nên nhỏ hơn.

Nếu như toàn bộ 2,850,000 km3 băng tan ra, mực nước biển sẽ dâng lên 7,2m. Hiện nay, nếu khí hậu cứ tiếp tục biến đổi, băng của Greenland sẽ tiếp tục tan ra là điều không thể tránh khỏi. Nhiệt độ dự đoán ở Greenland sẽ ở ngưỡng 3 °C (5 °F) đến 9 °C (16 °F) ở thế kỷ này. Dự đoán rằng sự nóng lên toàn cầu sẽ kéo dài giai đoạn tan chảy của băng, dẫn đến hậu quả băng sẽ tan hết (mất gần vài thế kỷ), mực nước biển sẽ dâng lên 7 mét. Và cứ tiếp tục dâng lên như thế thì nước biển sẽ tràn ra chủ yếu ở các thành phố ven biển. Tốc độ tan chảy của băng nhanh như thế nào đã gây ra rất nhiều cuộc thảo luận về vấn đề này. Dựa vào bản báo cáo IPCC 2001, nếu cứ tiếp tục băng tan nhanh hơn trong sau thế kỉ 21 thì hậu quả mà sự nóng lên toàn cầu gây ra là sự dâng lên 1 đến 5 mét của mực nước biển. Các nhà khoa học đã lưu ý rằng tốc độ băng tan càng tăng lên nhanh hơn, nói đúng hơn là không ổn định. James E. Hansen đã đưa ra một lập luận rằng đa số những phản hồi tích cực sẽ dẫn đến sự rã của tấm băng nhanh hơn theo như IPCC. Theo như một tờ báo 2007, "chúng tôi không có cách cụ thể nào để tìm ra những dữ liệu về cổ khí hậu học cho việc cưỡng chế và phản ứng lại sự tan nhanh của tấm băng trong hàng ngàn năm qua. Thời gian phản hồi của tấm băng hàng kéo dài nhiều thập kỷ dường như có thể xảy ra, và ta không thể loại trừ khả năng nhiều thay đổi trên bề mặt tảng băng trong một thập kỷ qua".

Vùng nóng chảy, nơi mà hơi ấm mặt trời biến thành tuyết và băng sau đó tuyết tan chảy mềm và tan ra thành vũng ao nước, tốc độ tăng nhanh qua từng năm. Khi mà nước tan ra từ băng thấm qua những vết nứt của tảng băng, băng tan nhanh hơn và ở một vài nơi, điều đó làm cho băng dễ thấm xuống tầng đá nền sâu bên dưới, làm nước có xu hướng đổ ra biển nhanh hơn. Khiến cho mực nước biển dăng lên, quá trình này nước ngọt đổ thêm vào biển nhưng nó sẽ làm đảo lộn dòng hải lưu và ảnh hưởng khí hậu xung quanh. Vào tháng 7/2012, vùng nóng chảy đã lan rộng tới 97% mặt băng. Các lõi băng cho thấy rằng cứ mỗi 150 năm thì sự kiện như thế này lại xảy ra. Lần cuối cùng băng tan chảy ở diện tích lớn là vào năm 1889. Sự kiện này được diễn ra theo vòng tuần hoàn, nhưng Lora Koenig, một nhà băng học đã đưa ra ý kiến "nếu ta cứ tiếp tục nhìn băng tan ra sau một vài năm nữa, thì nó sẽ trở thành một mối lo ngại". Sự biến đổi toàn cầu làm cho số lượng tảo đang dần bám vào mặt băng nhiều hơn. Nó khiến cho mặt băng tối màu lại thu hút nhiều ánh mặt trời hơn và làm cho khả năng tan chảy của băng tăng nhanh hơn. nhỏ|Cho đến năm 2007, những tảng băng tan vài cm mỗi năm nhỏ|Sự thay đổi khúc xạ ở Greenland Nước tan ra từ băng Greenland có thể vận chuyển được chất dinh dưỡng ở dạng hạt chất và chất được hòa tan trong nước biển ra các nơi trên thế giới. Một lượng chất sắt ở nước băng tan ra của Greenland cho thấy rằng một lượng lớn nước băng tan ra sẽ thêm nguyên tố vi lượng (Fe) vào Đại Tây Dương tương đương với lượng bụi được thải ra từ khí quyển. Mặc vậy, nhiều phân tử hạt và chất sắt chuyển hóa từ những tảng băng trôi vòng quanh Greenland có thể được giữ lại trong vịnh hẹp băng hà vây quanh một hòn đảo và không giống như vùng biển HNLC (nhiều dưỡng chất và ít chất diệp lục) nơi mà chất sắt có số lượng ít, những chế phẩm sinh học ở phía bắc Đại Tây Dương là một vấn đề về chu kì giới hạn của thời gian và không gian về sự hạn chế chất sắt. Tuy nhiên, hiệu suất cao được tiến hành trực tiếp trên sông băng của những vùng biển chính được giới hạn xung quanh Greenland và tượng trưng cho việc nước tan ra từ băng sẽ được vận chuyển xuống sâu hơn và hình thành nhiều dưỡng chất hơn ở bên dưới lòng biển. liên kết=Special:FilePath/Melt Ponds on the Greenland Ice Sheet.jpg|nhỏ|Hình ảnh băng tan (phần màu đen) được chụp từ vệ tinh nhân tạo liên kết=Special:FilePath/Greenland ice sheet melt figure.gif|thế=|nhỏ|Kết quả của cuộc điều tra về mặt nước biển dâng lên khi bị tác động bởi sự nóng lên toàn cầu

= Giải pháp =

Nguyên nhân chủ yếu của sự tan chảy băng ở Greenland cũng như ở hai vùng cực là do sự ấm lên toàn cầu. Do vậy, để giảm tốc độ tan chảy các khối băng, cần có những biện pháp giảm thiểu sự nóng lên toàn cầu như:

Giảm thiểu rác thải và tìm cách tái chế chúng

Lái xe ít hơn làm giảm nóng lên toàn cầu

 Trồng cây làm giảm nóng lên toàn cầu

Ưu tiên sử dụng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng

Ưu tiên sử dụng những nguồn năng lượng tái tạo

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|tấm băng ở Greenland **Tấm băng Greenland** (tiếng Đan Mạch: Grønlands indlandsis, Greenlandic: Sermersuaq) là một tấm băng rộng bao gồm 1.710.000 km vuông (660.000 dặm vuông), khoảng 80% bề mặt của đảo Greenland. Đây là
thumb|upright=1.3|Hình ảnh Nam Cực Một **tấm băng** (tiếng Anh: ice sheet) hay **mảng băng** là một khối băng băng bao phủ địa hình xung quanh và rộng hơn ,, còn gọi là sông băng lục
Grönland **Greenland** (tiếng Greenland: _Kalaallit Nunaat_, nghĩa "vùng đất của con người"; tiếng Đan Mạch: _Grønland_, phiên âm tiếng Đan Mạch: **Grơn-len**, nghĩa "Vùng đất xanh") là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc
Những biến đổi về [[Cacbon điôxít|CO2, nhiệt độ và bụi từ lõi băng ở trạm nghiên cứu Vostok trong 400.000 năm qua]]**Kỳ băng hà** là một giai đoạn giảm nhiệt độ lâu dài của khí
nhỏ|phải|Một phòng tắm hơi làm bằng gỗ ở Phần Lan. **Phòng tắm hơi** () là một căn phòng nhỏ hoặc nhà thiết kế như là một nơi để phục vụ cho con người tắm bằng
thumb|Sông băng Gorner, Zermatt, dãy Alps ở Thụy Sĩ **Băng hà học** (đôi khi còn gọi là **băng xuyên học**, xuyên có nghĩa là sông) là ngành khoa học nghiên cứu về sông băng, hay
nhỏ|[[Thềm băng Larsen ở Châu Nam Cực]] nhỏ|Cận cảnh [[thềm băng Ross]] **Thềm băng** là một tảng băng nổi dày tạo ra nơi sông băng hoặc tấm băng chảy xuống một bờ biển và lên
nhỏ|260x260px|Một băng sơn cỡ nhỏ trên [[Bắc Băng Dương, có thể thấy phần chìm vào trong nước nhiều hơn rất nhiều so với phần lộ ra mặt nước.]] nhỏ|Băng sơn ở [[Greenland do NASA quay
**Cá mập Greenland** (danh pháp khoa học: **_Somniosus microcephalus_**), còn có tên Inuit là **_eqalussuaq_**, là một loài cá mập bản địa của các vùng nước Bắc Đại Tây Dương xung quanh Greenland và Iceland.
**Sông băng** hay **băng hà** là một khối băng lâu năm (có tỷ trọng thấp hơn băng thường), di chuyển liên tục bởi trọng lượng của chính nó; nó hình thành ở nơi mà tuyết
**Kỳ Greenland** trong niên đại địa chất là kỳ đầu tiên của thế Holocen, và trong thời địa tầng học là bậc dưới cùng của thống Holocen thuộc hệ Đệ Tứ. Kỳ Greenland tồn tại
phải|nhỏ|300x300px| Khi băng tan, nước lỏng tích tụ ở các vùng trũng trên bề mặt và làm sâu chúng, tạo thành những ao băng tan ở [[Vùng Bắc Cực|Bắc Cực. Những ao nước ngọt này
phải|Bắc Băng Dương trên bản đồ thế giới **Bắc Băng Dương** là đại dương nhỏ nhất trong năm đại dương của Trái Đất, bao quanh cực Bắc, nơi đây băng tuyết bao phủ hoàn toàn
**Chi Ngưu bàng** hay còn gọi **chi Ngưu bảng**, **chi Ngưu báng** (danh pháp khoa học: **_Arctium_**) là một chi thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae). Là bản địa Cựu Thế giới, nhưng một vài
Sông băng [[Whitechuck năm 1973.]] Cùng góc nhìn tương tự sông băng Whitechuck năm 2006, tại nơi nhánh sông băng này đã lùi lại 1,9 km (1,2 mi). **Sự lùi dần của sông băng từ
thumb|Một tảng thiên thạch trên vùng băng xanh nằm trong [[dãy Miller]] **Khu vực băng xanh** là một vùng băng ở Nam Cực nơi gió tác động mạnh làm thăng hoa tuyết dẫn đến mất
**Qaasuitsup** () là một đô thị tự quản mới ở Greenland, hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 2009. Tính đến tháng 1 năm 2010, dân số của đô thị này là 17.749 người.
**Sự kiện tuyệt chủng Permi – Tam Điệp** hay **Permi – Trias** là một sự kiện tuyệt chủng xảy ra cách đây 251,4 Ma (_Mega annum, triệu năm_), và 70% các loài động vật có
Mưa sao băng Alpha-Monocerotid, 1995 **Sao băng**, **sao sa**, hay **sao đổi ngôi**, là đường nhìn thấy của các thiên thạch và vẫn thạch khi chúng đi vào khí quyển Trái Đất (hoặc của các
**Nuuk** (; ) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Greenland. Đây là nơi đặt trụ sở chính phủ và là trung tâm văn hóa và kinh tế. Những thành phố lớn
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
nhỏ|phải|[[Howard Carter kiểm tra quan tài trong cùng để xác ướp vua Tutankhamun]] **Xác ướp** là một người hoặc động vật có da với các cơ quan đã được bảo quản bằng cách tiếp xúc
**Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Fratercula arctica_**) là một loài chim biển trong họ Alcidae. Đây là loài hải âu cổ rụt bản địa duy nhất của Đại Tây
**Chiến tranh Whisky** (), còn gọi là **Cuộc chiến Rượu** (_Liquor Wars_), là một cuộc đối đầu giả vờ và tranh chấp biên giới chính thức giữa Đan Mạch và Canada đối với Đảo Hans.
**Svalbard** () là một quần đảo tại vùng Bắc Cực, là phần cực bắc của Na Uy. Quần đảo nằm cách 400 dặm về phía bắc của đại lục châu Âu, nằm giữa đại lục
**Robert Edwin Peary Sr.** (6 tháng 5 năm 1856 - 20 tháng 2 năm 1920) là một nhà thám hiểm người Mỹ đã tuyên bố đã đến Bắc cực địa lý với chuyến thám hiểm
**Carbon dioxide** hay **carbonic oxide** (tên gọi khác: _thán khí_, _anhydride carbonic_, _khí carbonic_) là một hợp chất ở điều kiện bình thường có dạng khí trong khí quyển Trái Đất, bao gồm một nguyên
**Quốc gia cấu thành** là một thuật ngữ đôi khi được sử dụng trong những bối cảnh mà quốc gia đó là một phần của một thực thể chính trị lớn hơn, như là quốc
nhỏ|Bất chỉnh hợp góc Hutton tại [[mũi Siccar, nơi sa thạch đỏ cổ Devon 370 triệu năm tuổi phủ lên greywacke Silur 435 triệu năm tuổi. Những khu vực này là một phần của lục
**Thảm họa Toba** hay sự kiện **siêu phun trào Toba** là vụ phun trào siêu núi lửa đã xảy ra tại vị trí ngày nay là hồ Toba ở Sumatra, Indonesia, vào thời gian giữa
**Kỳ lân biển** (_Monodon monoceros_) (tiếng Anh: **Narwhal**) là một loài động vật có vú sống ở biển kích cỡ trung bình thuộc phân bộ Cá voi có răng (Odontoceti), sống quanh năm ở vùng
phải|Eo biển Nares, nằm giữa đảo Ellesmere (Nunavut, Canada) và Greenland. **Eo biển Nares** (tiếng Đan Mạch: **Nares Strædet**; ) là một eo biển nằm giữa đảo Ellesmere (phần xa nhất về phía bắc của
**Cá voi lưng gù** (danh pháp hai phần: **_Megaptera Novaeangliae_**) là một loài cá voi tấm sừng hàm. Là một loài cá voi lớn, nó có chiều dài từ và cân nặng khoảng 30-50 tấn.
**Sân bay Kangerlussuaq** , cũng gọi là **Sân bay Søndre Strømfjord**, là một sân bay ở Kangerlussuaq (tên bằng tiếng Đan Mạch: _Søndre Strømfjord_), Greenland. Đây là sân bay dân sự duy nhất ở Greenland
thế=Three taupe-colored, brown-speckled eggs in a bird's nest made of dried grass|nhỏ| Một ổ gồm ba quả trứng mòng biển có thể ăn được, được chụp năm 2016 tại [[Na Uy]] **Trứng mòng biển** được
**Maine** () là tiểu bang cực Đông của vùng New England thuộc Đông Bắc Hoa Kỳ. Nó giáp New Hampshire về phía Tây, Vịnh Maine về phía Đông Nam, và các tỉnh của Canada là
**Gấu trắng Bắc Cực** (danh pháp hai phần: **_Ursus maritimus_**) là một loài động vật có vú lớn của bộ Ăn thịt (Carnivora), họ Gấu (Ursidae). Chúng là loài động vật sống gần địa cực
thumb|upright=1.35|right|alt=Bản đồ toàn cầu về sự tăng nhiệt độ nước biển từ 0,5 đến 300 độ Celsius; nhiệt độ đất liền tăng từ 10000 đến 20000 độ Celsius; và nhiệt độ vùng Bắc cực tăng
**Mảng Bắc Mỹ** là một mảng kiến tạo che phủ phần lớn Bắc Mỹ, Greenland và một số phần của Siberi thuộc Nga. Nó kéo dài về phía đông tới sống núi giữa Đại Tây
**Sự kiện Bond** là những sự kiện bè băng ở Bắc Đại Tây Dương mà Gerard C. Bond muốn liên kết với những biến động khí hậu trong thế Holocen. Đã xác định được tám
**Sự kiện 11 tháng 9**, còn được gọi là **vụ khủng bố ngày 11 tháng 9**, **cuộc tấn công ngày 11 tháng 9** hay đơn giản là **11/9** (; ở Hoa Kỳ thường được gọi
nhỏ|phải|Cá tuyết Đại Tây Dương **Cá tuyết Đại Tây Dương** (danh pháp hai phần: _Gadus morhua_) là một loài cá tuyết ăn tầng đáy thuộc Họ Cá tuyết. Loài này sinh sống ở Đại Tây
**_U-501_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**Liên minh châu Âu** hay **Liên hiệp châu Âu** (tiếng Anh: _European Union_; viết tắt **EU**), còn được gọi là **Liên Âu** (tiền thân là Cộng đồng Kinh tế châu Âu), là một thực thể
**Cá voi xanh** (_Balaenoptera musculus),_ còn gọi là **cá ông** là một loài cá voi thuộc về phân bộ Mysticeti (cá voi tấm sừng hàm). Dài và nặng hay thậm chí hơn nữa, nó là
**Quả cầu tuyết Trái Đất** đề cập tới giả thuyết rằng bề mặt Trái Đất từng hầu như hay hoàn toàn bị đóng băng ít nhất một lần trong ba giai đoạn từ 650 tới
**Cá voi minke** () là một phức hợp loài của cá voi tấm sừng hàm. Hai loài cá voi minke là cá voi minke thông thường (hoặc phía bắc) và cá voi minke Nam Cực
nhỏ|Zemlya Frantsa-Iosifa, Ảnh vệ tinh của NASA, tháng 8 năm 2011. **Zemlya Frantsa-Iosifa**, (, _Zemlya Frantsa-Iosifa_) hay **Đất Franz Josef** theo tiếng Anh: Franz Josef Land là một quần đảo nằm tại cực bắc của
**Cuộc thám hiểm vùng đất Crocker** diễn ra vào năm 1913. Mục đích của nó là điều tra sự tồn tại của **Crocker Land**, một hòn đảo lớn được cho là của nhà thám hiểm
**Vùng đất Queen Maud** () là một khu vực rộng khoảng ở Nam Cực được Na Uy tuyên bố là lãnh thổ phụ thuộc. Nó giáp với Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Anh ở