✨Súng trường tấn công Type 56

Súng trường tấn công Type 56

Súng trường tự động Kiểu 56 (QBZ-56; Tiếng Trung: 五六式自動步槍, Phiên âm Hán – Việt: Ngũ lục thức tự động bộ thương), ở Việt Nam thường được gọi tắt là K56 (hay K-56 - Kiểu 56) hay AK Trung Quốc (AK-TQ), là loại súng trường tấn công (hay súng tiểu liên) do Trung Quốc sản xuất dựa trên AK-47 và AKM. Súng được sản xuất từ năm 1956 tại Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 của Trung Quốc, đến năm 1973, Norinco thay thế Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 tiếp tục sản xuất loại súng này.

Lịch sử hoạt động

K-56 được sử dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia và nhiều chiến trường tại Châu Á, Châu Phi, Nam Mĩ và Đông Âu. Một tài liệu không chính xác cho biết trên thế giới có đến 10-15 triệu khẩu K-56, chiếm 1/5 số súng AK đã được sản xuất trên thế giới. Đặc biệt trong Chiến tranh lạnh, Trung Quốc vừa xuất khẩu vừa viện trợ loại súng này cho nhiều nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới.

Ở Việt Nam, súng thường bị nhầm với phiên bản CKC của Trung Quốc cũng có tên là Kiểu 56 và cũng được sử dụng nhiều tại Việt Nam, vì vậy, để tránh nhầm lẫn, nhiều người gọi K-56 là AK Trung Quốc, còn mẫu CKC "Type 56" do Trung Quốc chế tạo vẫn được gọi là CKC như các phiên bản của Liên Xô.

Trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979, Kiểu 56 đã xuất hiện ở cả hai bên chiến tuyến. Trong Chiến tranh Iran-Iraq, cả Iran và Iraq cũng đều sử dụng K-56.

Kiểu 56 cũng xuất hiện trong Chiến tranh Kosovo.

Hiện nay, cũng giống với tình trạng của AK-47 và AKM, K-56 đang được nhiều lực lượng vũ trang, thậm chí các tổ chức khủng bố, ma túy hay mafia sử dụng điển hình như Taliban hay Al-Qaeda. K-56 vẫn được Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc giữ cho lực lượng dự bị và quân động viên, dù ít xuất hiện trong lực lượng chính quy của Trung Quốc. Trong quân đội chính quy, K-56 được thay bằng K-81 và K-84.

Mặc dù từ năm 2008 súng trường tiến công tiêu chuẩn là AKM và AKMS nhưng K-56 vẫn còn trong biên chế Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bởi vì K-56 nặng hơn AK-47 và một số biến thể của AK-47, động lượng khi bắn lớn hơn dẫn tới độ chụm cao hơn AK-47, cộng thêm tiếp nhận các ưu điểm từ AKM nên Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn giữ K-56 lại trong biên chế.

Đặc tính cơ bản

Về cơ bản, K-56 có cấu tạo và nguyên lý hoạt động tương tự AK-47, chỉ có vài khác biệt nhỏ như lưỡi lê ba cạnh gập dưới nòng súng thay vì sử dụng lưỡi lê kiểu lá lúa của AK-47, ngoài ra, đầu ruồi của súng còn được bảo vệ bằng một vòng tròn kín thay vì nửa vòng như AK-47. Dựa trên phiên bản gốc K-56, Trung Quốc phát triển các phiên bản cải tiến như K-56 I/II (báng xếp), K-56C (còn gọi là QBZ-56C, phiên bản cắt ngắn nòng, dùng hộp tiếp đạn 20 viên), K-84 (phiên bản dùng đạn 5,56mm tiêu chuẩn NATO).

Sản xuất

Ngoài Trung Quốc thì hiện nay vẫn còn 4 nước sản xuất súng trường K-56 bao gồm Sudan, Campuchia, Việt Nam và Albania. Hiện nay, Việt Nam đang nâng cấp chế độ giảm giật cho K-56.

Các quốc gia sử dụng

Lần lượt từ trái qua phải K-56-1, K-84, K-56 K-56-II, bản báng gấp ngang kiểu Đông Âu Một khẩu K-56 ở trên và 1 khẩu AKS-47 ở dưới

  • : Vẫn còn dùng K-56 trong quân đội, dành cho lực lượng dân quân và quân dự bị động viên.
  • : Vẫn còn sử dụng K-56. Hiện nay đang nâng cấp giảm giật và tự sản xuất những khẩu K-56 đời mới tân tiến mới nhất tại Việt Nam trong Quân đội Nhân dân Việt Nam.
  • Súng trường tấn công Type 56 tịch thu từ trong tay Việt Cộng và sử dụng bởi quân đội Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ.

Thông số kỹ thuật cơ bản

Một chiến sĩ [[Hải quân Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đang cầm trên tay súng trường tấn công K-56]]

  • Loại: Súng trường tự động.
  • Nước chế tạo: ,
  • Trọng lượng: K-56: 3.8 kg (8.38 lb) K-56-1: 3.70 kg (8.16 lb) K-56-2: 3.94 kg (8.69 lb)
  • Độ dài súng: Type 56: 874 mm (34.4 in) K-56-1/56-2: 874 mm (34.4 in) có báng, 654 mm (25.7 in) gập báng.
  • Độ dài nòng: 414 mm (16.3 in)
  • Loại đạn: 7.62x39mm M43
  • Cơ chế hoạt động: Trích khí ngang, Khóa nòng lùi, Thoi móc đạn xoay
  • Tốc độ bắn: 600-650 viên/phút
  • Tốc độ đạn: 735 m/s (2,411 ft/s)
  • Tầm ảnh hưởng: 100–800m
  • Số đạn/băng: 30 viên
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Súng trường tự động Kiểu 56** (**QBZ-56**; Tiếng Trung: 五六式自動步槍, Phiên âm Hán – Việt: Ngũ lục thức tự động bộ thương), ở Việt Nam thường được gọi tắt là **K56** (hay **K-56** - Kiểu
**Súng trường bộ binh tự động kiểu 81** (81式自动步枪, _81 thức tự động bộ thương_), trong các tài liệu tiếng Anh thường gọi ngắn gọn là **Type 81**, là loại súng súng trường tấn công
**Súng trường tấn công kiểu 58** (còn gọi là **AK Triều Tiên**) là súng trường tấn công được sản xuất bởi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, được đưa vào sử dụng từ
**Howa Shiki 89** hay còn gọi là Howa Type 89 (89式5.56mm小銃, はちきゅうしき5.56ミリしょうじゅう, hachi-kyūshiki-go-ten-go-roku-miri-syōjū) là một loại súng trường tấn công sử dụng đạn tiêu chuẩn 5.56×45mm NATO do Mỹ phát triển. Súng này do Nhật
nhỏ|Một lính [[Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ điều chỉnh tầm bắn trên Mk 12 SPR]] nhỏ|Một khẩu G28 của [[Quân đội Đức]] **Súng trường thiện xạ** (**Designated marksman rifle**, viết tắt là **DMR**) là
**AKM** (tên đầy đủ là **A**vtomat **K**alashnikova **m**odernizirovannyy ) _(tiếng Nga:_ Автомат Калашникова модернизированный_) (tiếng Việt đầy đủ: Súng trường Kalashnikov hiện đại hóa)_ là súng trường tấn công của Liên Xô. Nó là bản
**AK-101** là loại súng trường tự động trong dòng súng AK. Nó được thiết kế để phục vụ xuất khẩu. Súng AK-101 sử dụng loại đạn tiêu chuẩn của NATO 5,56×45mm. Một số phần của
là súng trường tấn công được phát triển cho Lực lượng phòng vệ mặt đất Nhật Bản do Howa phát triển. Nó được mong đợi là sẽ thay thế cho Howa Type 89. Súng Type
**M16** là một loạt súng trường do hãng Colt cải tiến từ súng AR-15 của hãng Armalite. Đây là loại súng tác chiến bắn đạn 5,56×45mm NATO. M16 là súng thông dụng của quân đội
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
**Biệt đội Hải cẩu Campuchia** hay còn gọi là **Lực lượng đột kích SEAL Campuchia** (tiếng Anh: _Cambodian Navy SEALs_) là lực lượng đặc nhiệm hải quân chính của Hải quân Quốc gia Khmer (tiếng
**ArmaLite AR-18** là một dòng súng trích khí cỡ nòng dùng đạn 5,56 × 45mm NATO. AR-18 được thiết kế tại ArmaLite ở California bởi Arthur Miller, Eugene Stoner, George Sullivan và Charles Dorchester vào
**Thủy quân lục chiến Campuchia** (tiếng Pháp: _Corps de Fusiliers-Marins Khmères_ – CFMK) là binh chủng lính thủy đánh bộ của Hải quân Quốc gia Khmer (tiếng Pháp: _Marine National Khmère_ – MNK) trong cuộc
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
Có rất nhiều vũ khí do Liên Xô và các nước khác chế tạo chịu ảnh hưởng từ thiết kế AK-47 của kỹ sư Kalashnikov. Sau đây là danh sách không đầy đủ * AEK-971
**Lục quân Hoàng gia Campuchia** là một bộ phận của Quân đội Hoàng gia Campuchia với quân số khoảng 75.000 biên chế thành 11 sư đoàn bộ binh được trang bị thiết giáp tích hợp
Quân phục Tiểu đoàn Biệt kích dù 911|thumb Binh sĩ Biệt kích dù 911 trên tàu USS Essex|phải|thumb **Lực lượng đặc nhiệm 911** hay **Tiểu đoàn Biệt kích dù 911** (tiếng Anh: _911 Special Forces_
nhỏ|Lưỡi lê đầu thế kỷ 19 **Lưỡi lê** là vũ khí lạnh giống cây thương nhưng nhỏ hơn nhiều và thường lắp vào các khẩu súng trường tấn công và chiến đấu. Khoảng thế kỷ
**Súng phóng lựu chống tăng Type 69 (RPG)** hay còn gọi là **Súng phóng lựu B69** là một loại súng phóng lựu chống tăng (RPG) do hãng Norinco của Trung Quốc sản xuất từ năm
**CKC** (viết tắt của "**С**амозарядный **К**арабин системы **С**имонова" trong tiếng Nga, nghĩa là _Súng cạc-bin nạp đạn tự động cơ cấu Simonov_), phương Tây gọi là **SKS**, là loại súng trường bán tự động bắn
Nội chiến Lào là một cuộc xung đột quân sự giữa lực lượng du kích theo chủ nghĩa Marx là Pathet Lào chống lại Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào (FAR) của Vương quốc
- Có nghĩa là "Xe bọc thép hạng nhẹ loại 94", còn được gọi là TK, Viết tắt của Tokushu Keninsha, nghĩa đen là "Máy kéo đặc biệt". Nó là một loại khinh tăng tăng
**Quân đội Nhân dân Lào** (, _Kongthap Pasaxon Lao_) là lực lượng vũ trang chính quy của Lào, giữ trọng trách bảo vệ đất nước. Về danh nghĩa, Quân đội Nhân dân Lào đặt dưới
**_U-331_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-559_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-333_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-558_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-353_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ kịp
Vitamin C là gì? Vitamin C, sinh tố C hay acid ascorbic là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho các loài linh trưởng bậc cao, và cho một số nhỏ các loài khác. Sự
**_U-569_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_I-48_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_U-74_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-441_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-480_** là một tàu ngầm tấn công thử nghiệm thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó được xem là tàu ngầm
**_U-247_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó chỉ thực
**_U-73_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-436_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-432_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-278_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-309_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-373_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-210_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
**_U-518_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-288_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ thực
**_U-274_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
**_U-281_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-312_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực