✨Sừng hươu nai

Sừng hươu nai

nhỏ|phải|Một chiếc sừng hươu Sừng hươu nai hay còn gọi là gạc hươu nai hay còn gọi gọn là gạc là cấu trúc bằng xương của các loài hươu nai có sừng, đây là phần mở rộng của hộp sọ phát triển thành các nhánh, chúng thường có cấu trúc xương phát triển theo cặp đối xứng. Trong hầu hết các loài hươu nai, chỉ có con đực trưởng thành là có gạc và chức năng chính là để tăng khả năng hấp dẫn của bản thân trong việc thu hút các con cái lựa chọn để giao phối hoặc sử dụng làm vũ khí chiến đấu con đực khác hoặc dùng làm vũ khí tấn công, tự vệ. Ở nhiều loài gạc bị rụng và tái sinh mỗi năm, những chiếc sừng mới nhú lên gọi là sừng non hay nhung hươu hay lộc hươu. Tế bào gốc giữ một vai trò quan trọng trong khả năng đặc biệt của hươu đó là mọc lại sừng mới.

Đặc điểm

Hươu nai là loài duy nhất trong các động vật có vú có khả năng tái tạo một phần cơ thể hoàn hảo đó là một bộ sừng xương được bao phủ trong da nhung. Sừng hàng năm phát triển, chết đi, bị rụng và sau đó tái sinh. Chúng mọc lên trong vòng ba đến bốn tháng, là một trong những loại mô sống phát triển nhanh nhất. Vào cuối mùa giao phối, hươu rụng sừng để bảo tồn năng lượng. Mùa xuân năm sau, một cặp sừng mới mọc lên, Trong gạc hươu có khoảng 25% chất keo (keratin) 50-60% calci photphát, calci cacbonat, một ít chật đạm và ít nước.

Quá trình

Nhú nhung

Những cặp sừng của hươu đực hay nai đực mới mọc hàng năm, sừng non mọc vào cuối mùa hạ, sừng hươu, nai rụng đi, mùa xuân năm sau mọc lại sừng mới. Sừng mới mọc rất mềm, có màu hồng hoặc nâu nhạt, mặt ngoài phủ đầy lông, trên có phủ lớp lông trắng xám rất mịn, sờ vào êm như nhung, bên trong chứa nhiều mạch máu và máu từ những chiếc sừng này rất bổ dưỡng, có thể máu tươi của hươu có công dụng bồi bổ sức khỏe, bổ thận tráng dương, tăng cường sinh lực. Nhung có thể chưa phân nhánh hoặc có nhánh, còn gọi là nhung yên ngựa (nhung mới bắt đầu phân nhánh, còn ngắn, bên dài bên ngắn).

Giai đoạn 2

nhỏ|phải|Một chiếc sừng hươu đã hoàn chỉnh Cặp sừng đầu tiên xuất hiện ở tuổi thứ hai, nó đơn giản, không phân nhánh. Nhung mọc được 2–3 cm thì bắt đầu phân nhánh thứ nhất. Khi được 16–25 cm (có thể ngăn hơn) thì phân nhánh lần thứ 2 thường gọi là sừng chìa vôi. Nó chuyển qua các giai đoạn khác nhau Các nhánh này tiếp tục phát triển và càng xa gốc càng nhỏ dần. Hiện tượng hóa xương (vôi hóa) dần theo chiều từ gốc đến ngọn và từ trong ra ngoài cũng được bắt đầu ở giai đoạn phân nhánh lần thứ 2 này. Sừng chìa vôi có phần gốc to sần sùi với nhiều nốt sần thẳng hàng từ gốc sừng đến gần đầu mút sừng, phần ngọn nhọn. Mút sừng thường nhẵn bóng do hươu thường cọ sừng vào thân cây, mô đất hoặc bụi cỏ...

Hươu sao còn có lần phân nhánh thứ 3 để tạo nên sừng bốn nhánh. Mùa rụng sừng của hươu sao diễn ra vào mùa xuân từ giữa tháng Một đến cuối tháng Ba. Sang tuổi thứ 3, sừng hươu bắt đầu có dạng phân nhánh (thường là ba nhánh). Những năm tiếp theo, sừng có dạng bốn nhánh.

Rụng sừng

Sừng hươu đặc và được thay hàng năm vào mùa xuân từ tháng 1 – 3, không rụng cùng một lúc mà thường cách xa 1 – 4 ngày. Sừng bên trái thường rụng trước, giai đoạn rụng sừng còn gọi là giai đoạn đổ đế. Khi sừng sắp rụng các tế bào xung quanh gốc và đế sừng phát triển mạnh, đáy sừng cũ bật ra khỏi đế gây ra hiện tượng ngứa ngáy cho con vật.

Ở giai đoạn này hươu thích cọ sừng vào mô đất, gốc cây... và đó cũng là yếu tố cơ học thúc đẩy quá trình đổ đế diễn ra nhanh chóng. Khi sừng cũ rụng xuống, các lớp tế bào xung quanh gốc và đế sừng tiếp tục phát triển che lấp và bọc kín để sừng tạo nên một khối mềm có màu hồng nhạt, trên có lớp lông trắng cứng. Ban đầu khối mềm gần như phủ bằng phẳng, dần dần phát triển tạo sừng non và quá trình đó lại tiếp tục.

Khả năng

nhỏ|phải|Sừng hươu mọc lại Hươu chính là loài duy nhất trong số các loài động vật có vú có khả năng tái sinh trọn vẹn một bộ phận cơ thể, ví dụ như bộ gạc của chúng. gạc là cấu trúc lớn được tạo thành từ xương và tăng trưởng dần theo thời gian. Bộ phận này có thể mọc hoàn chỉnh trong khoảng 3-4 tháng và với tốc độ ấy, nó trở thành loại mô sống tăng trưởng nhanh nhất. Sau khi đạt đến kích cỡ tối đa, xương gạc sẽ bắt đầu cứng lại và lớp da mềm mại sẫm màu phủ bên ngoài rụng dần.

Khi lớp da rụng hết chỉ còn lại bộ xương và nó trở thành thứ vũ khí sắc bén trong các cuộc ẩu đả. Thông thường, vào cuối mùa kết đôi của hươu, bộ gạc cũng tự động rụng đi để bảo tồn năng lượng. Chờ tới mùa xuân kế tiếp sau đó, một cặp gạc mới sẽ mọc lên từ mô xương nhú ra khỏi đỉnh đầu con vật. Chính tế bào gốc - loại tế bào có khả năng phân hóa thành nhiều dạng mô chuyên biệt là nền tảng của quá trình tự tái sinh này. Điều chỉnh nó là một vài dạng truyền tín hiệu, có thể do các hormon như oestrogen và testosterone quy định.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một chiếc sừng hươu **Sừng hươu nai** hay còn gọi là **gạc hươu nai** hay còn gọi gọn là **gạc** là cấu trúc bằng xương của các loài hươu nai có sừng, đây là phần
nhỏ|phải|Nhung hươu **Nhung hươu nai** hay **lộc nhung** là sừng của hươu đực hay nai đực. Hàng năm, vào cuối mùa hạ, sừng hươu, nai rụng đi, mùa xuân năm sau mọc lại sừng mới.
**Nuôi hươu nai** và việc chăn nuôi các loài hươu, nai như một loại gia súc để lấy các sản phẩm từ chúng như thịt nai, sừng hươu đặc biệt là nhung hươu, pín hươu,
**Hươu nai** là con vật hiện diện trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Với bản tính là loài vật nhút nhát, hễ có tiếng động là bỏ chạy, khi nghe có tiếng động
**Họ Hươu nai** (**Cervidae**) là một họ gồm các loài động vật có vú móng guốc chẵn nhai lại. Hai nhóm chính của họ này là Cervinae (mang, nai sừng xám, hươu hoang và hươu
thumb|right|Tám loài họ Hươu nai (chiều kim đồng hồ từ góc trái trên cùng): [[hươu đỏ|hươu _Cervus elaphus_, hươu _Cervus nippon_, hươu _Rucervus duvaucelii_, tuần lộc (_Rangifer tarandus_), hươu _Odocoileus virginianus_, hươu _Mazama gouazoubira_, nai
nhỏ|phải|Một con hươu bị mổ bụng, moi [[phủ tạng sau khi bị săn]] **Săn hươu nai** là các hình thức săn bắt, săn bắn các loại hươu, nai. Hình thức này tồn tại từ hàng
nhỏ|phải|Một súc thịt nai **Thịt nai** là thịt của một con nai được giết sau một cuộc săn bắn (còn gọi là thịt rừng) hoặc thịt con nai được giết mổ. Thịt nai có thể
**Hươu Maral** hay còn gọi là **hươu đỏ Lý Hải** hoặc **hươu đỏ miền Đông** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus maral_) là một phân loài của loài hươu đỏ, có nguồn gốc ở khu
**Nai sừng tấm Ireland** hay **Nai khổng lồ** (tên khoa học **_Megaloceros giganteus_**) là một loài thuộc họ _Megaloceros_ và là loài nai lớn nhất từng sống trên Trái Đất. Chúng là loài có phạm
**Nai sừng xám Mãn Châu** (Danh pháp khoa học: **_Cervus canadensis xanthopygus_**) là một phân loài của loài nai sừng xám Cervus canadensis. Đây là một loài bản địa của vùng Đông Bắc Á, phân
**Nai sừng xám Altai** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis sibiricus_) hay còn gọi là **nai đỏ** là một phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy trong các ngọn đồi rừng của
Trân trọng cơ thể của mình bằng cách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe vì đời sống ngày này, sức khỏe của chúng ta bị chịu nhiều tác động từ môi trường ô nhiễm, nguồn
Trân trọng cơ thể của mình bằng cách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe vì đời sống ngày này, sức khỏe của chúng ta bị chịu nhiều tác động từ môi trường ô nhiễm, nguồn
Trân trọng cơ thể của mình bằng cách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe vì đời sống ngày này, sức khỏe của chúng ta bị chịu nhiều tác động từ môi trường ô nhiễm, nguồn
**Nai sừng xám miền Đông** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis canadensis_) là một trong sáu phân loài của nai sừng xám phân bố ở miền Bắc và miền đông Hoa Kỳ, Canada và miền
**Nai sừng xám** hay còn gọi là **Nai sừng xám Bắc Mỹ** (tên khoa học: _Cervus canadensis_) là một trong những loài lớn nhất thuộc họ Hươu nai trên thế giới và là một trong
nhỏ|phải|Hươu hoang, loài hươu bản địa của Anh **Hươu ở Anh** chỉ về các loài hươu sinh sống tại vùng Đại Anh (Great Britain). Hiện nay có tất cả 06 loài hươu đang sinh sống
nhỏ|phải|Khu vực phát hiện loài nai này ngày nay **Nai Merriam** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis merriami_) là một phân loài của loài nai sừng xám. Loài nai này đã bị tuyệt chủng. Chúng
**Nai sừng xám Alashan** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis alashanicus_) là một phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy ở Bắc Trung Quốc và Mông Cổ. Nó là phân loài nhỏ
**Hươu sừng ngắn** hay **hươu nhỏ**, **hươu con** (tên khoa học: **_Mazama_**) là một chi động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Chi này được Rafinesque miêu tả năm 1817. Những
thumb|Chiếc đuôi đen nổi bật của loài hươu này **Hươu đuôi đen** (tiếng Anh: _black-tailed deer_ hoặc _blacktail deer_) (danh pháp ba phần: _Odocoileus hemionus columbianus_) là một phân loài của hươu la (Odocoileus hemionus).
**Hươu nâu Philippines** _(Rusa marianna)_ là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Desmarest mô tả năm 1822. Đây là loài bản địa từ các khu
**Hươu sừng ngắn lông nâu Yucatán** (_Mazama pandora_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Merriam mô tả năm 1901. Đây là loài bản địa
**Hươu sừng ngắn lông đỏ Trung Mỹ** (danh pháp hai phần: _Mazama temama_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Kerr mô tả năm 1792.
**Hươu sừng ngắn lông đỏ Ecuador** (_Mazama rufina_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Pucheran mô tả năm 1851. Đây là loài bản địa
**Hươu sừng ngắn thân bé** (_Mazama nana_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Hensel mô tả năm 1872. ## Hình ảnh Tập tin:Mazama
**Hươu sừng ngắn lông xám** (_Mazama gouazoubira_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được G. Fischer von Waldheim mô tả năm 1814. Loài này phân
**Hươu sừng ngắn Merida** (_Mazama bricenii_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Thomas mô tả năm 1908.
**Hươu sừng ngắn thân lùn** (_Mazama chunyi_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Artiodactyla. Loài này được Hershkovitz mô tả năm 1959. Loài này có nguồn gốc từ vùng
**Hươu sừng ngắn lông đỏ** (_Mazama americana_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Erxleben mô tả năm 1777. Loài này sinh sống ở các
**Hươu sừng ngắn lông đỏ thân nhỏ** (_Mazama bororo_) là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Duarte miêu tả năm 1996.
**Nai sừng tấm Á-Âu** (Danh pháp khoa học: _Alces alces_) là một loài thú trong phân họ Capreolinae thuộc họ hươu nai (Cervidae). Đây là loài thú to lớn nhất và nặng nhất còn tồn
**Nai vàng Đông Dương** (Danh pháp khoa học: **_Hyelaphus annamiticus_**) là một loài thuộc chi Hyelaphus và cũng được coi là phân loại của hươu vàng là động vật bản địa của Campuchia, Lào, Trung
**Capreolinae** hay **Odocoileinae** hay còn gọi là **hươu Tân Thế giới** là một phân họ hươu, nai. Các loài hươu, nai này chủ yếu tập trung tại châu Mỹ (Tân Thế giới). ## Các chi
Nhung hươu là sừng non của con hươu, khi được ngâm cùng mật ong nó sẽ giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường trao đổi chất, cải thiện trí nhớ...Nhung hươu là sừng non của
Nhung hươu là sừng non của con hươu, khi được ngâm cùng mật ong nó sẽ giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường trao đổi chất, cải thiện trí nhớ...Nhung hươu là sừng non của
Nhung hươu là sừng non của con hươu, khi được ngâm cùng mật ong nó sẽ giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường trao đổi chất, cải thiện trí nhớ...Nhung hươu là sừng non của
**Nai sừng xám Tule** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis nannodes_) là một phân loài của nai sừng tấm chỉ được tìm thấy ở California từ vùng đồng cỏ và vùng đầm lầy của Thung
**Nai đen** (Danh pháp khoa học: _Cervus unicolor equinus_) là một phân loài của loài nai (_Rusa unicolor hay Cervus unicolor_) phân bố ở vùng Đông Dương đến bán đảo Mã Lai. Đây là loài
CAO BAN LONG - VỊ THUỐC CỔ TRUYỀN TỪ NGÀN ĐỜI Cao ban long, hay còn được gọi là lộc giác giao, là bài thuốc y học cổ truyền nổi tiếng từ thời xưa, được
**Hươu Đại Hạ** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus bactrianus_) hay còn gọi là **Hươu Bactria**, **Hươu Bukhara**, **Hươu Bokhara** là một phân loài của loài hươu đỏ bản địa của vùng Trung Á, chúng
nhỏ|phải|Nai đỏ Tây Tạng **Nai đỏ Trung Á** là một phân nhóm phức hợp nguyên thủy của thuộc phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy ở rìa phía Nam và phía đông
**Hươu sao Đài Loan** (Danh pháp khoa học: _Cervus nippon taioanus_) ) là một phân loài của loài hươu sao và là loài đặc hữu của đảo Đài Loan. Hươu Đài Loan, giống như hầu
**Nai sừng xám núi Rocky** (Danh pháp khoa học _Cervus canadensis nelsoni_) là một phân loài của nai sừng tấm tìm thấy ở dãy núi Rocky và dãy liền kề ở Tây Bắc Mỹ. Phạm
**Hươu sao Nhật Bản** (Danh pháp khoa học: _Cervus nippon nippon_; chữ Nhật: ニホンジカ/日本鹿/nihonjika) là một phân loài của loài hươu sao phân bố ở phía nam của đảo Honshu, Shikoku và Kyushu. hươu sao
**Nai sừng tấm Alaska** (Danh pháp khoa học: _Alces alces gigas_) còn được biết đến với tên gọi là **Nai sừng tấm lớn** là một phân loài của Nai sừng tấm châu Âu, phân bố
**Nai** (tên khoa học: **_Rusa unicolor_**) hay còn gọi là **hươu Sambar** theo tiếng Anh (_Sambar deer_), là một loài thú lớn thuộc họ Hươu, phân bố ở Sri Lanka, Nepan, Ấn Độ, Trung Quốc,
**Hươu đuôi trắng Columbia** (Danh pháp khoa học: _Odocoileus virginianus leucurus_) là một trong ba phân loài hươu đuôi trắng ở Bắc Mỹ. Nó là một thành viên của họ Hươu nai, trong đó bao
**Nai sừng xám Tứ Xuyên** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis macneilli_; chữ Trung Quốc: 白臀鹿/Tứ Xuyên Lộc) cũng còn được biết với tên gọi **Nai MacNeill** là một phân loài của loài nai sừng