Sử Triều Nghĩa (, ?-763) là vị hoàng đế thứ tư và là vua cuối cùng của Đại Yên trong lịch sử Trung Quốc, một nhà nước được An Lộc Sơn lập nên vào năm 756 trong cuộc nổi loạn chống lại nhà Đường. Ông là con trai cả của Sử Tư Minh, đã lật đổ và sau đó giết chết cha trong một cuộc chính biến vào năm 761 và xưng đế. Tuy nhiên, ông đã không thể có được lòng trung thành từ những thuộc hạ của vị hoàng đế tiền nhiệm, và cuối cùng bị liên quân Đường và Hồi Cốt đánh bại. Ông đã tự sát trong lúc tháo chạy.
Thân thế
Không rõ Sử Triều Nghĩa được sinh ra vào thời điểm nào, chỉ biết ông là con trai cả của Sử Tư Minh, và ông không phải là con ruột của Tân Hoàng hậu.
Tướng Đại Yên
Sử Tư Minh là người là bạn từ thời thơ ấu của An Lộc Sơn và là thuộc cấp của An Lộc Sơn ngay từ khi họ An còn là tướng của nhà Đường cho đến khi lập nước Đại Yên. Đến năm 757, Sử Tư Minh đã quay lưng lại với người con trai đã sát hại và cướp ngôi An Lộc Sơn là An Khánh Tự, quy phục triều Đường, đưa vùng Phạm Dương (范陽, Bắc Kinh ngày nay) mà ông kiểm soát về với nhà Đường. Sử Tư Minh sau khi khuất phục Đường đã cho Sử Triều Nghĩa trấn giữ Ký Châu (冀州, tương ứng với Hành Thủy, Hà Bắc).
Tuy nhiên, năm 758, Sử Tư Minh do bất bình với một vụ mưu sát không thành của nhà Đường với mình, một lần nữa lại nổi dậy chống triều đình nhà Đường và cứu viện cho An Khánh Tự, người đang bị quân Đường bao vây ở Nghiệp thành. Vào mùa xuân năm 759, Sử Tư Minh đã đánh bại quân Đường đang bao vây Nghiệp thành và sau đó giết chết An Khánh Tự về tội giết cha.
Sử Triều Nghĩa được cử trấn thủ Nghiệp thành. Cuối năm đó, khi Sử Tư Minh xưng làm Hoàng đế Đại Yên ở Phạm Dương, Sử Triều Nghĩa được phong làm Hoài vương.
Sử Triều Nghĩa vốn là tướng dưới quyền cha trong những năm chinh chiến. Ông được mô tả là người tính tình nghiêm cẩn, rất thương yêu tướng sĩ nên được lòng người. Ban đầu Sử Triều Nghĩa được Sử Tư Minh lập làm thái tử, nhưng sau đó Sử Tư Minh lại yêu con nhỏ Sử Triều Thanh là con của hoàng hậu họ Tân nên có ý phế bỏ ông Vào mùa hè năm 759, khi Sử Tư Minh phát động một chiến dịch lớn chống Đường tại Lạc Dương, ông để Sử Triều Thanh trấn giữ Phạm Dương và hợp binh với Sử Triều Nghĩa và các tướng khác của Đại Yên. Ông nhanh chóng chiếm được Lạc Dương, song đã bị đẩy lùi khi cố gắng tấn công kinh đô của Đường là Trường An, ông không thể chiếm được Thiểm Châu (陝州, tương ứng với Tam Môn Hiệp, Hà Nam ngày nay).
Giết cha đoạt ngôi
Năm 761, sau khi đánh bại danh tướng nhà Đường là Lý Quang Bật ở Mang Sơn, Sử Tư Minh mang quân Yên tiến về phía tây nhằm đánh kinh đô Trường An của nhà Đường. Đường Túc Tông lo sợ, phải điều quân Thiểm châu về phòng ngự cho Trường An.
Sử Triều Nghĩa làm chỉ huy tiền quân đánh Thiểm Châu, song nhiều lần bị tướng Đường là Vệ Bá Ngọc (衛伯玉) đẩy lui. Sử Tư Minh tấn công Thiểm châu mấy lần không thắng, bèn lui về Vĩnh Ninh. Ngày 18 tháng 4, Sử Tư Minh lệnh cho Sử Triều Nghĩa phải xây dựng một pháo đào hình tam giác, lấy một ngọn đồi là 1 cạnh của thành, để dự trữ nguồn lương thảo. Vua cha hẹn rõ ngày ông phải hoàn tất.
Sử Triều Nghĩa xây xong thành nhưng chưa trát bùn, đúng lúc Sử Tư Minh đi kiểm tra, bèn quát khỏi Triều Nghĩa sao chưa chát bùn vào thành. Triều Nghĩa đáp rằng:
:Tướng sĩ lao động đã mệt rồi, cho họ uống nước một lúc rồi sẽ làm tiếp.
Sử Tư Minh nóng ruột, bèn sai mấy chục thủ hạ đi cùng xuống ngựa, lấy bùn trát lên tường, một chốc đã làm xong. Tư Minh giận mắng Triều Nghĩa:
:Đợi ta hạ được Thiểm Châu rồi sẽ dạy bảo ngươi!
Đêm đó, các thuộc cấp của Sử Triều Nghĩa là Lạc Duyệt (駱悅) và Sái Văn Cảnh (蔡文景) đã cảnh báo cho Triều Nghĩa rằng ông đang lâm vào tình cảnh nguy cấp và nếu ông từ chối hành động để hạ bệ Sử Tư Minh thì họ sẽ đào thoát đến Đường. Sử Triều Nghĩa vốn đã lo về việc cha yêu Sử Triều Thanh, nay nhân việc đó, sợ bị trị tội, bèn đồng ý hành động và họ Lạc đã thuyết phục được tướng bảo vệ của Sử Tư Minh chấp thuận âm mưu này.
Đêm hôm đó Sử Tư Minh bèn trở dậy đi ra nhà tiêu. Lạc Duyệt dẫn 300 lính phục kích. Tư Minh nghe động, bèn trèo tường nhảy ra, lấy được một con ngựa định phóng đi trốn, nhưng quân Triều Nghĩa bắn theo. Tư Minh bị trúng một phát tên ngã ngựa. Sau đó quân Triều Nghĩa lao tới chém chết Tư Minh.
Sử Triều Nghĩa giết cha, lại giết luôn mẹ con Tân hoàng hậu và Sử Triều Thanh, tự xưng là Yên Đế.
Thất bại
Phạm Dương – căn cứ của chính quyền Đại Yên - rơi vào tình trạng tàn sát nội bộ. Sử Triều Nghĩa không ngừng tàn sát người cùng cánh với Sử Triều Thanh, mấy ngàn người bị giết, không yên ổn trong một thời gian.
Ông bắt đầu chịu một số thất bại trước các tướng của Đường, và đã thất bại trong việc tiến đánh Lộ Châu (潞州, tương ứng Trường Trị, Sơn Tây ngày nay) và Tống Châu (宋州, tương ứng Thương Khâu, Hà Nam ngày nay). Sau khi củng cố lại lực lượng, nhà Đường quyết định ra quân chủ lực đánh Yên. Ung vương Lý Thích cùng các tướng Bộc Cố Hoài Ân, Quách Anh Nhân ra trận, có sự trợ giúp của Đăng Lý khả hãn của Hồi Cốt trợ chiến.
Tháng 10, năm 762, liên quân Đường - Hồi Cốt tổ chức tổng tấn công Sử Triều Nghĩa ở Lạc Dương. Triều Nghĩa không chống cự nổi, nhanh chóng bại trận, bỏ chạy lên Hà Bắc.
Sang tháng 1 năm 763, các Tiết độ sứ nước Yên như Trương Hiến Thành (張獻誠), Tiết Tung (薛嵩), Trương Trung Chí (tức Lý Bảo Thần 李寶臣), Điền Thừa Tự (田承嗣), Lý Hoài Tiên (李懷仙), và Lý Bão Trung (李抱忠), thấy Triều Nghĩa thất thế nên từ chối yêu cầu trợ giúp của ông và lần lượt phản Yên, trở lại hàng nhà Đường. Sử Triều Nghĩa bị quân Đường truy kích, bỏ chạy hết nơi này tới nơi khác nhưng đều bị các thủ hạ phản lại không dung nạp.
Sử Triều Nghĩa không còn đường dung thân, định chạy lên phía bắc chỗ người Hề hay Khiết Đan. Trong khi chạy, Triều Nghĩa bị thủ hạ cũ là Lý Hoài Tiên mới đầu hàng nhà Đường mang quân truy kích và ngăn chặn.
Triều Nghĩa trốn vào khu rừng rậm ở sách Ôn Tuyền cạnh thành Thạch Đầu, vẫn bị Hoài Tiên truy riết. Triều Nghĩa biết không còn đường thoát, bèn treo cổ tự vẫn trong rừng. Ông ở ngôi vua Đại Yên được 3 năm, không rõ năm đó ông bao nhiêu tuổi.
Lý Hoài Tiên tìm được xác Sử Triều Nghĩa, chặt đầu mang về kinh đô Trường An dâng Đường Đại Tông. Cái chết của Sử Triều Nghĩa đồng thời đánh dấu thời điểm triều Đại Yên diệt vong sau 8 năm tồn tại (756-763).
Niên hiệu
Sử Triều Nghĩa dùng 1 niên hiệu duy nhất trong thời gian làm vua Đại Yên:
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sử Triều Nghĩa** (, ?-763) là vị hoàng đế thứ tư và là vua cuối cùng của Đại Yên trong lịch sử Trung Quốc, một nhà nước được An Lộc Sơn lập nên vào năm
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Khu phi quân sự Triều Tiên** (tiếng Anh: _Korean Demilitarized Zone_; tiếng Triều Tiên: 조선반도 비무장지대 (theo cách gọi của phía Triều Tiên) hay 한반도비무장지대 (theo cách gọi của phía Hàn Quốc), Hanja: 朝鮮半島非武裝地帶 _Triều
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
Hiện nay có nhiều tên gọi được sử dụng để chỉ **Triều Tiên**. Trong tiếng Triều Tiên, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (tức Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) dùng tên
**Thể chế chính trị nhà Triều Tiên** được vận hành theo chế độ quan liêu tập quyền, dựa trên lý tưởng Nho giáo Tính Lý Học (성리학) làm nền tảng. Về lý thuyết, vua Triều
**Thành Đức quân tiết độ sứ** hay **Hằng Dương quân tiết độ sứ**, **Hằng Ký tiết độ sứ**, **Trấn Ký tiết độ sứ** (762 - 930), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung
**Ngụy Bác quân tiết độ sứ** hay **Thiên Hùng quân tiết độ sứ** (763 - 915), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung và hậu kì nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc,
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Đào thoát khỏi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** là hiện tượng những người mang quốc tịch CHDCND Triều Tiên vượt biên khỏi quốc gia này để sang một quốc gia khác, thường
**Yên** (chữ Hán: 燕), còn gọi là **Đại Yên** (大燕), là một nhà nước được viên tướng của nhà Đường là An Lộc Sơn thành lập từ ngày 5 tháng 2 năm 756, sau khi
thumb|upright=1.4|Bán đảo Triều Tiên lúc đầu được chia theo vĩ tuyến 38, sau đó được chia theo đường phân chia ranh giới (DMZ). thumb|upright=1.4|Thông tin của DMZ Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Thế Chiến
Dưới đây là một danh sách gồm quân chủ các nhà nước của người Triều Tiên: ## Cổ Triều Tiên Cổ Triều Tiên (2333 TCN ? (ko) – 108 TCN) là vương quốc đầu tiên
**Triều Tiên thuộc Nhật** (, Dai Nippon Teikoku (Chōsen)) là giai đoạn bán đảo Triều Tiên trong thời kỳ Đế quốc Nhật Bản cai trị, được bắt đầu kể từ khi Nhật Bản ép vua
**Kế hoạch Bắc phạt của Triều Tiên Hiếu Tông** đề cập đến chiến lược của Triều Tiên Hiếu Tông vào giữa thế kỷ 17 nhằm khôi phục quyền tự chủ cho Triều Tiên và chống
**Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (còn gọi là Bắc Triều Tiên) bắt đầu vào cuối Thế chiến II năm 1945, Sự đầu hàng của Nhật Bản dẫn đến sự chia
**_Tam quốc sử ký_** (Hangul: 삼국사기 samguk sagi) là một sử liệu của người Triều Tiên bằng chữ Hán, về Tam Quốc là Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La trong lịch sử Triều
**Sử** (chữ Hán: 史) một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. Trong Bách gia tính (百家姓) họ Sử 史 xếp thứ 63. Họ Sử
**_Về việc loại bỏ chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa hình thức và thiết lập chủ thể trong công tác tư tưởng_**, còn được gọi là **_Bài diễn văn Juche_**, là một bài diễn văn
**Triệu Vân** (chữ Hán: 趙雲, bính âm: Zhào Yún; (169- 229), tự Tử Long,là danh tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là công thần
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Sự biến Phụng Thiên** (chữ Hán: 奉天之難), hay còn gọi **Kính Nguyên binh biến** (泾原兵变), là vụ chính biến quân sự xảy ra thời Đường Đức Tông Lý Quát trong lịch sử Trung Quốc do
phải|thumb|Lãnh thổ của [[người Hán từ lưu vực Hoàng Hà đã bành trướng sang các lãnh thổ lân cận.]] **_Chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa_** (giản thể: **中华帝国主义**, phồn thể: **中華帝國主義**, **bính âm: Zhōnghuá dìguó
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
Vấn đề **nhân quyền tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** rất khó để đánh giá toàn diện vì nó bị xem là vấn đề bí mật và nhạy cảm ở quốc gia
**Sử Tư Minh** (chữ Hán: 史思明; 703-761) là một viên tướng của nhà Đường và là người cùng An Lộc Sơn cầm đầu loạn An Sử nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc giữa thế
**Quốc kỳ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** () hay còn gọi là **Ramhongsaek Konghwagukgi** (; Hán- việt: _Lam hồng sắc Cộng hòa quốc kỳ_; Nhân cộng kỳ; nghĩa là "cờ màu xanh
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Khởi nghĩa Jeju** (Hangul: 제주 4·3 사건, Hanja: 濟州四三事件, Hán Việt: Tế Châu tứ tam sự kiện, nghĩa là 'sự kiện 3 tháng 4 tại Jeju') là một cuộc khởi nghĩa trên đảo Jeju tại
**Lịch sử Hoa Kỳ**, như được giảng dạy tại các trường học và các đại học Mỹ, thông thường được bắt đầu với chuyến đi thám hiểm đến châu Mỹ của Cristoforo Colombo năm 1492
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
nhỏ|phải|294x294px|Múa lân nhân ngày kỷ niệm danh nhân [[Trần Văn Thành tại dinh Sơn Trung (An Giang, Việt Nam)]] **Múa lân - sư - rồng** (; Hán Việt: vũ sư) là một môn nghệ thuật
**Lý Nghĩa Mẫn** () là tể tướng nước Cao Ly dưới triều vua Minh Tông (1170 – 1179). Lý Nghĩa Mẫn là một trong các võ quan chi phối chính quyền Cao Ly giai đoạn
**Lịch sử Áo** là lịch sử của nước Áo ngày nay và các quốc gia tiền thân của nó từ đầu thời kỳ đồ đá cho đến nay. Tên _Ostarrîchi_ (Áo) đã được sử dụng
**Triều Tiên Định Tông** (chữ Hán: 朝鮮定宗; Hangul: 조선 정종; 1357 - 1419), là vị quân chủ thứ hai của triều đại Nhà Triều Tiên. Ông cai trị từ năm 1398 đến khi thiện nhượng
Lâm Xuyên Khang vương **Lưu Nghĩa Khánh** (chữ Hán: 刘义庆, 403 – 444), người Tuy Lý, Bành Thành, quan viên, nhà văn, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thăng tiến
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
nhỏ|[[Đấu trường La Mã ở Rome, được xây vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên]] **Ý** được thống nhất năm 1861, có những đóng góp quan trong cho sự phát triển văn hóa, xã
**Triệu Vũ Đế** (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy **Triệu Đà** (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt và nhà Triệu, án ngữ tại
nhỏ|_[[Dancheong_, họa tiết trang trí ở Gyeongbokgung.]] nhỏ|Lễ hội đèn lồng hoa sen. Sự phân tách Triều Tiên thành hai chính thể: Đại Hàn Dân Quốc (còn gọi là Hàn Quốc hoặc Nam Hàn) và
**Thần thoại Triều Tiên** gồm các tích truyện đến từ bán đảo Triều Tiên. Dù là trong cùng một dân tộc, các thần thoại có sự khác nhau nhỏ giữa các vùng. Ví dụ như
**Quan hệ Trung Quốc- Triều Tiên** (, ) là quan hệ song phương giữa CHND Trung Hoa (PRC) và CHDCND Triều Tiên (DPRK). Trung Quốc và Triều Tiên trước đây có quan hệ ngoại giao
thumb|Người dân Triều Tiên viếng tượng [[Kim Nhật Thành (trái) và Kim Jong-il ở Đài tưởng niệm Mansu Hill Grand, Bình Nhưỡng.]] nhỏ|phải|Khải Hoàn môn Bình Nhưỡng **Văn hóa Bắc Triều Tiên** chỉ về nền