✨Sự kiện Vịnh Con Lợn
phải|nhỏ|Bản đồ vị trí vịnh Con Lợn.
Sự kiện Vịnh Con Lợn (còn có tên là La Batalla de Girón, hoặc Playa Girón ở Cuba) hay Trận chiến Girón (đọc là Hi-rôn), là một chiến dịch đổ bộ thất bại ở bờ biển phía tây nam Cuba năm 1961 bởi những người Cuba lưu vong có tư tưởng chống Cộng dưới sự đào tạo của CIA nhằm lật đổ chính phủ của Fidel Castro.
Kế hoạch được tiến hành vào tháng 4 năm 1961, chưa đầy ba tháng kể từ khi John F. Kennedy lên nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ. Kết quả sau ba ngày chiến đấu, quân đội cách mạng Cuba đã đánh bại đội quân lưu vong. Quan hệ Cuba – Hoa Kỳ đã xấu còn tiếp tục tồi tệ hơn sau đó với Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Sự kiện này được đặt tên theo vịnh Con Lợn, một cách dịch từ tiếng Tây Ban Nha Bahía de Cochinos. Cuộc đổ bộ chính trong sự kiện xâm lược này diễn ra tại bờ biển Playa Girón, nằm ở cửa vịnh, vì vậy trận đánh này còn gọi là La Batalla de Girón.
Bối cảnh chính trị
nhỏ | [[Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower.]]
Ngày 16 tháng 3 năm 1960, Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đã ra lệnh cho Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) dùng Đơn vị Hoạt động Đặc biệt của mình để vũ trang, huấn luyện và chỉ đạo những người Cuba lưu vong để thực hiện đổ bộ xâm lược vào Cuba, nhằm lật đổ chính quyền do Fidel Castro mới thành lập ở Cuba. Eisenhower nói rằng chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là phải hỗ trợ cho lực lượng du kích chống Fidel. Ban đầu CIA rất tự tin là họ đủ khả năng lật đổ chính phủ Cuba, vì đã có kinh nghiệm thành công trước đây như Cuộc đảo chính ở Guatemala 1954. Một kế hoạch có bí danh Chiến dịch Pluto được Phó giám đốc Kế hoạch của CIA Richard Mervin Bissell, Jr. thảo ra, dưới quyền của Giám đốc CIA Allen Dulles.
Kế hoạch ban đầu của CIA là sẽ xâm nhập bằng tàu vào thành cổ thuộc địa Trinidad, Cuba, cách La Habana khoảng 270 km về phía đông nam, tại chân của Dãy núi Escambray thuộc tỉnh Sancti Spiritus. Trinidad có hạ tầng cầu cảng tốt, và khá gần với các hoạt động phản cách mạng tại Cuba. CIA về sau cũng đề nghị các phương án thay thế, đến ngày 11 tháng 3 năm 1961 Tổng thống Kennedy và nội các của ông đã lựa chọn phương án Vịnh Con Lợn (hay còn được gọi là Chiến dịch Zapata), vì nó có đường sân bay thích hợp cho hoạt động của máy bay ném bom B-26 và ít "ồn ào" về mặt quân sự hơn, vì vậy có vẻ sẽ dễ khước từ sự liên quan trực tiếp của Hoa Kỳ hơn. Khu vực đổ bộ được đổi sang những bãi biển bao quanh vịnh Con Lợn tại tỉnh Las Villas, cách La Habana 150 km về phía đông nam, nằm ở phía đông bán đảo Zapata. Cuộc đổ bộ dự kiến sẽ diễn ra tại Playa Girón (bí danh Bãi xanh dương), Playa Larga (bí danh Bãi đỏ), và Caleta Buena Inlet (bí danh Bãi xanh lá).
Vào tháng 3 năm 1961, CIA giúp những người Cuba lưu vong tại Miami thành lập Hội đồng Cách mạng Cuba (CRC), do José Miró Cardona, cựu Thủ tướng Cuba vào tháng 1 năm 1959, làm chủ tịch. Cardona trên thực tế trở thành tổng thống chờ đợi cho chính quyền Cuba hậu xâm lược.
Sự chuẩn bị và huấn luyện cho cuộc đổ bộ
Vào tháng 4 năm 1960, CIA bắt đầu tuyển mộ người Cuba lưu vong có tư tưởng chống Fidel tại khu vực Miami. Đến tháng 7 năm 1960, quá trình tuyển lựa và huấn luyện diễn ra tại Đảo Useppa và một số địa điểm khác tại Nam Florida, như Homestead AFB. Những cuộc huấn luyện về đánh du kích diễn ra tại Trại Gulick, Panama và Trại Clayton, Panama. Việc huấn luyện lính nhảy dù được tiến hành ở căn cứ Garrapatenango, gần Quetzaltenango, Guatemala. Việc huấn luyện xử lý thuyền và đổ bộ diễn ra tại Đảo Vieques, Puerto Rico. Huấn luyện tăng diễn ra tại Trại Knox, Kentucky và Trại Benning, Georgia. Huấn luyện phá hoại và xâm nhập dưới nước diễn ra tại Belle Chase gần New Orleans.
Đầu năm 1961, quân đội Cuba sở hữu các loại vũ khí do Liên Xô thiết kế như xe tăng T-34 và IS-2 Stalin, SU-100 tự hành chống tăng, pháo bức kích 122 mm, các loại pháo và vũ khí hạng nhẹ khác, trong đó có cả pháo bức kích 105 mm của Ý. Không quân Cuba được trang bị các loại khí tài như máy bay ném bom hạng nhẹ Douglas B-26 Invader, chiến đấu cơ Hawker Sea Fury, và phản lực Lockheed T-33, tất cả đều là những thứ để lại từ Fuerza Aérea del Ejército de Cuba (FAEC), không quân Cuba dưới thời chính quyền Batista.
Do đã tiên lượng được cuộc xâm nhập, Che Guevara đã nhấn mạnh tầm quan trọng của lược lượng dân quân vũ trang, nói rằng "mọi người dân Cuba phải là một đội quân du kích, mỗi một người Cuba phải học cách sử dụng súng và khi cần phải dùng chúng để bảo vệ đất nước."
Những cảnh báo trước cuộc xâm lược
Lực lượng an ninh phòng thủ của Cuba đã biết về cuộc xâm lược sắp tới, thông qua mạng lưới tình báo bí mật của họ, cũng như qua những cuộc nói chuyện bị rò rỉ giữa những thành viên của lữ đoàn, một số nghe được tại Miami và được lặp lại tại Hoa Kỳ và các bản tin báo chí ngoại quốc khác. Tuy nhiên, nhiều ngày trước cuộc xâm lược, đã có một số hành động phá hoại được thực hiện, như cuộc tấn công phá hoại tại cửa hàng bách hóa El Encanto ở La Habana ngày 13 tháng 4, giết chết một nhân viên cửa hàng. Người dân Cuba nói chung không được biết điều gì sắp xảy ra, ngoại trừ Đài phát thanh Swan do CIA tài trợ. Vào tháng 5 năm 1960, hầu như mọi phương tiện liên lạc công cộng đều nằm trong tay chính quyền.
Một bài viết của báo Washington Post ngày 29 tháng 4 năm 2000 có tên "Liên Xô biết được ngày tấn công Cuba", đã nói rằng CIA có được thông tin nói rằng Liên Xô đã biết trước cuộc xâm lược sẽ diễn ra mà không báo cho Kennedy. Đài phát thành Moskva đã phát đi một bản tin tiếng Anh vào ngày 13 tháng 4 năm 1961 tiên đoán một cuộc xâm lược "theo một kịch bản do CIA dàn dựng" sử dụng những "tên tội phạm" do CIA trả lương trong tuần tới. Cuộc xâm lược diễn ra bốn ngày sau đó.
Theo Đại sứ Anh tại Hoa Kỳ, David Ormsby-Gore, tình báo Anh cho rằng đa số người dân Cuba ủng hộ Fidel và sẽ khó mà xảy ra hiện tượng đào ngũ hoặc khởi nghĩa hàng loạt sau khi xâm lược, điều này cũng đã được chuyển tới CIA.
Ngay trước vụ xâm nhập
Tấn công bằng không quân vào các sân bay (15 tháng 4)
Trong đêm ngày 14, rạng sáng ngày 15 tháng 4, người ta lên kế hoạch đổ bộ nghi binh gần Baracoa, tỉnh Oriente, với khoảng 164 quân Cuba lưu vong dưới sự chỉ huy của Higinio 'Nino' Diaz. Tàu mẹ, có tên 'La Playa' hoặc 'Santa Ana', đã đi từ Key West mang cờ hiệu của Costa Rica. Một số tàu khu trục của Hải quân Mỹ thả neo gần bờ biển vịnh Guantanamo để tạo cảm giác đang chờ đổ bộ. Thuyền trinh sát đã trở lại tàu sau khi nhận thấy có hoạt động của lực lượng dân quân Cuba dọc bờ biển.
Tiếp theo đó, vào rạng sáng, một máy bay thăm dò khu vực Baracoa được phóng đi từ Santiago de Cuba. Đó là chiếc FAR T-33, do Trung úy Orestes Acosta cầm lái, rồi cắm thẳng xuống biển, có thể do phi công mệt mỏi hoặc máy móc hỏng hóc. Vào ngày 17 tháng 4, người ta đồn rằng đây là một tên đào ngũ.
Chuyến bay giả (15 tháng 4)
Khoảng 90 phút sau khi tám chiếc B-26 cất cánh từ Puerto Cabezas để tấn công các sân bay của Cuba, một chiếc B-26 đã cất cánh nhằm nghi binh bay gần Cuba nhưng hướng đến Florida ở phía bắc. Cũng như các nhóm ném bom, nó mang dấu hiệu giả của Quân cách mạng Cuba và cùng con số 933 như hai chiếc khác. Trước khi cất cánh, miếng bọc động cơ của một trong hai động cơ của máy bay được các nhân viên CIA tháo ra, bắn vào đó, rồi lắp lại để ngụy tạo rằng chiếc máy bay đã bị bắn đâu đó trên đường bay. Sau khi đã đặt được khoảng cách an toàn về phía bắc Cuba, phi công làm hư động cơ có dấu đạn sẵn, rồi báo cuộc gọi cấp cứu, yêu cầu được phép hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Quốc tế Miami. Phi công là Mario Zúñiga, trước thuộc không quân Cuba, và sau khi hạ cánh ông ta khai mình là "Juan Garcia", và tuyên bố là ba đồng chí khác cũng đã đào ngũ khỏi Quân đội Cuba. Hôm sau ông được trao quyền tỵ nạn chính trị và đêm đó quay trở lại Puerto Cabezas qua Opa-Locka.
Phản ứng (15 tháng 4)
Vào 10:30 sáng ngày 15 tháng 4 tại Liên Hợp Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Cuba Raúl Roa đã buộc tội Mỹ đã tấn công bằng không quân vào Cuba, và chiều hôm đó chính thức đệ trình bản kiến nghị lên Ủy ban Chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Phản ứng lại, đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Adlai Stevenson cho rằng không quân Hoa Kỳ không "có cớ gì" can thiệp vào Cuba, và rằng Hoa Kỳ sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để đảm bảo rằng không có công dân Hoa Kỳ nào tham dự vào các hành động chống Cuba. Ông cũng nói rằng những lính đào ngũ Cuba mới là người thực hiện những vụ tấn công vào hôm đó, và ông đưa ra bức ảnh của Thông tấn xã Hoa Kỳ chụp chiếc B-26 của Zuniga có phù hiệu Cuba tại sân bay Miami. Stevenson sau đó rất xấu hổ khi nhận ra CIA đã nói dối ông và Ngoại trưởng Dean Rusk.
Ngày 15 tháng 4, cảnh sát quốc gia, do Efigenio Ameijeiras chỉ huy, bắt đầu bắt giữ hàng ngàn cá nhân tình nghi phản cách mạng, và giam giữ họ tại những địa điểm tạm thời như Nhà hát Blanquita, khu vực hào của Fortaleza de la Cabana và Lâu đài Principe Castle đều ở La Habana, một khu chơi bóng chày ở Matanzas.
Chiến tranh cuội (16 tháng 4)
Vào đêm 15 rạng sáng 16 tháng 4, nhóm Nino Diaz thất bại trong nỗ lực đổ bộ nghi binh lần thứ hai vào địa điểm mới gần Baracoa.
Không còn vụ tấn công bằng không quân nào khác vào các phi trường và máy bay của Cuba trước ngày 17 tháng 4, nhưng các tuyên bố cường điệu của phi công đã khiến CIA tin vào sự thành công của vụ tấn công ngày 15 tháng 4, cho đến khi hình ảnh do thám từ chiếc U-2 vào ngày 16 tháng 4 cho thấy điều ngược lại. Vào cuối ngày 16 tháng 4, Tổng thống Kenedy ra lệnh hủy các vụ tấn công vào sân bay được lên kế hoạch thực hiện vào rạng sáng ngày 17 tháng 4, để cố gắng phủ nhận sự liên can trực tiếp của Hoa Kỳ.
Xâm lược
Ngày xâm lược (17 tháng 4)
Trong suốt đêm ngày 16, sáng ngày 17 tháng 4, một cuộc đổ bộ nghi binh được các đặc vụ CIA sắp xếp gần Bahia Honda, tỉnh Pinar del Rio. Một đội nhỏ gồm các thuyền nhẹ kéo theo những chiếc bè trên có đặt các thiết bị phát ra âm thanh và các hiệu ứng khác để tạo cảm giác có một cuộc đổ bộ xâm lược bằng tàu. Nguồn tin từ Cuba sau này báo cáo rằng vì cuộc nghi binh này mà Fidel Castro đã rời khỏi mặt trận vịnh Con Lợn trong một thời gian ngắn. Khoảng 30 quân cùng với các thiết bị nặng đã được thả xuống phía nam nhà máy đường của Úc trên đường đến Palpite và Playa Larga, nhưng thiết bị thất lạc trong đầm lầy và đội quân này không thể khóa được con đường. Số quân khác được thả xuống San Blas, Jocuma giữa Covadonga và San Blas, và tại Horquitas giữa Yaguaramas và San Blas. Các vị trí này có nhiệm vụ phong tỏa con đường duy trì được hai ngày, cho đến khi được tiếp viện từ bộ binh từ Playa Girón đến. Một chiếc FAL B-26 đã chuyển hướng tới Grand Cayman với động cơ hỏng. Tới 16.00, Fidel Castro đã tới trung tâm nhà máy đường Australia, gia nhập với José Ramón Fernández người đã được ông chỉ định làm chỉ huy chiến trước trước buổi sáng ngày hôm đó. CIA không biết hay không quan tâm tới những hiệu ứng mang tính biểu hiện này trong chiến dịch đã được lên kế hoạch sẵn. Chiếc C-46 cũng di tản Matias Farias, phi công của chiếc B-26 serie '935' (mã hiệu Chico Two) đã bị bắn và phải hạ cánh khẩn cấp xuống Girónngày 17 tháng 4.
Cuối ngày 19 tháng 4, tàu khu trục USS Eaton (mã hiệu Santiago) và USS Murray (mã hiệu Tampico) đã dời tới vịnh Con Lợn để di tản các binh sĩ Lữ đoàn đang rút lui khỏi các bãi biển, trước khi những loạt đạn từ xe tăng của Cuba buộc Commodore Crutchfield phải ra lệnh rút lui. 114 người Cuba lưu vong từ Lữ đoàn 2506 được thông báo là đã thiệt mạng trong chiến đấu., theo một nguồn khác khoảng 5,000 người.
Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1961, hàng trăm vụ hành quyết đã diễn ra để trả đũa cuộc xâm lược. Chúng được thực hiện ở nhiều nhà tù, gồm cả Fortaleza de la Cabaña và El Morro Castle.
Ngày 21 tháng 12 năm 1962, Thủ tướng Cuba Fidel Castro và James B. Donovan, một luật sư Mỹ, đã ký một thoả thuận trao đổi 1,113 tù binh lấy US$53 triệu bằng lương thực và thuốc men; số tiền được quyên góp từ các nhà tài trợ tư nhân. Ngày 24 tháng 12 năm 1962, một số tù nhân được máy bay đưa về Miami, những người khác đi trên chiếc tàu African Pilot, cộng với khoảng 1,000 thành viên gia đình họ cũng được cho phép rời Cuba. Ngày 29 tháng 12 năm 1962, Tổng thống John F. Kennedy tham dự một buổi lễ 'welcome back' (chào mừng trở lại) cho các cựu chiến binh Lữ đoàn 2506 tại Orange Bowl ở Miami, Florida.
Ngoài ra, Guevara đã trả lời một loạt câu hỏi của Leo Huberman thuộc tờ Monthly Review sau cuộc xâm lược. Trong một câu trả lời, Guevara được yêu cầu giải thích số lượng ngày càng tăng những người phản cách mạng và đào tẩu khỏi chế độ, ông đã trả lời rằng cuộc xâm lược bị đẩy lui là cực điểm của phản cách mạng và rằng những hậu quả của những hành động đó "hầu như bằng không." Về việc một số nhân vật nổi bật trong chính phủ Cuba đào tẩu, Guevara lưu ý rằng điều này bởi vì "cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để lại những kẻ cơ hội, tham vọng và sợ hãi phía sau và hiện đang tiến tới một chế độ mới không có tầng lớp ký sinh đó."
Báo cáo của CIA
Tháng 11 năm 1961, nhà điều tra của CIA tướng Lyman B Kirkpatrick, đã thảo ra một báo cáo 'Survey of the Cuban Operation', và nó vẫn được xếp hạng tuyệt mật cho tới năm 1996. Những kết luận gồm:
CIA đã vượt quá những khả năng của mình khi phát triển dự án từ hỗ trợ du kích để tiến tới hoạt động vũ trang công khai mà không có bất kỳ khả năng thành công nào.
Không đánh giá thực tế được các nguy cơ và thông tin một cách thích hợp với các quyết định bên trong và với các thành phần chính phủ khác.
Không có sự tham gia đầy đủ của các lãnh đạo lưu vong.
Không thể tổ chức một cách hiệu quả sự nổi dậy từ bên trong Cuba.
Không thể thu thập và phân tích thông tin tình báo một cách chính xác về các lực lượng của Cuba.
Quản lý nội bộ về thông tin và nhân sự kém.
Không có đủ nhân sự trình độ cao.
Không đủ người nói tiếng Tây Ban Nha, các cơ sở huấn luyện và các nguồn tài nguyên thiết bị.
Thiếu các chính sách ổn định và các kế hoạch bất ngờ.
Dù có những sự bác bỏ mạnh mẽ của ban điều hành CIA về các báo cáo, Giám đốc CIA Allen Dulles, Phó giám đốc CIA Charles Cabell, và Phó giám đốc Kế hoạch Richard Bissell đều đã bị buộc phải từ chức vào đầu năm 1962.
Trong những năm sau này, cách ứng xử của CIA trong giai đoạn đó đã trở thành một ví dụ chủ chốt thường được nêu ra về mô hình tâm lý được gọi là triệu ứng Groupthink.
Di sản vụ xâm lược tại Cuba
Cuộc xâm lược thường được công nhận như là đánh dấu việc biến Castro trở nên nổi tiếng hơn, tạo ra thêm các tình cảm quốc gia ủng hộ cho các chính sách kinh tế của ông. Sau những vụ tấn công ban đầu của 8 chiếc B-26 thuộc sở hữu của CIA vào các sân bay Cuba, ông đã tuyên bố cuộc cách mạng "Marxist-Leninist". Sau cuộc xâm lược, ông theo đuổi một quan hệ thân cận hơn với Liên Xô, một phần để được bảo vệ, và điều này giúp mở đường cho cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba một năm rưỡi sau đó. Castro khi ấy đã trở nên lo ngại về sự can thiệp tiếp theo của Hoa Kỳ và càng cởi mở hơn với đề xuất của Liên Xô về việc đặt các vũ khí hạt nhân ở Cuba nhằm đảm bảo an ninh cho nước này. Hiện vẫn có những cuộc diễn tập quân sự được tổ chức hàng năm trên cả nước Cuba trong 'Dia de la Defensa' (Ngày Quốc phòng) để chuẩn bị cho dân chúng trước một cuộc xâm lược.
Di sản vụ xâm lược với người Cuba lưu vong
Nhiều người chiến đấu cho CIA trong sự kiện Vịnh Con Lợn vẫn trung thành sau cuộc xâm lược. Một số cựu chiến binh từ Sự kiện Vịnh Con Lợn đã trở thành các sĩ quan trong Quân đội Mỹ tại Việt Nam, gồm 6 đại tá, 19 trung tá, 9 thiếu tá, và 29 đại uý. Tính đến tháng 3 năm 2007, khoảng một nửa số thành viên của Lữ đoàn đã qua đời.
Playa Girón ngày nay
Bảo tàng về vụ xâm lược với một chiếc [[Hawker Sea Fury được bảo tồn.]] Ít di tích còn lại của ngôi làng cũ, mà trong thập niên 1960 là một ngôi làng nhỏ và xa xôi. Nó vẫn xa xôi, với chỉ một con đường duy nhất để đi tới, nhưng đã lớn lên rất nhiều từ cuộc xâm lược. Ít người dân làng hiện nay từng ở đó vào thời điểm cuộc xâm lược. Con đường từ phía bắc được ghi dấu bởi nhiều đài tưởng niệm những người Cuba đã ngã xuống. Có những biển báo thể hiện nơi những kẻ xâm lược đã tụ tập và có những bức ảnh về sự rút chạy của họ. Một lối vào khác của làng có ghi câu nói của Castro rằng vịnh Con Lợn là "thất bại đầu tiên của chủ nghĩa đế quốc Yankee." Một bảo tàng hai phòng, với chiếc máy bay và các thiết bị quân sự khác bên ngoài, có những bức ảnh, vũ khí và bản đồ của cuộc tấn công và những bức ảnh về những binh sĩ Cuba đã tử trận. Những biển hiệu và các đồ vật khác cũng đề cập tới những tên lính đánh thuê" được Mỹ hậu thuẫn.