✨Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ (tiếng Anh: Gulf of Tonkin incident) là một cuộc chạm trán tầm cỡ quốc tế dẫn tới việc Hoa Kỳ tham gia trực tiếp hơn vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Sự kiện bao gồm hai cuộc đụng độ; sự kiện lần đầu, được chứng minh là đã xảy ra, vào ngày 2 tháng Tám năm 1964, là do quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) tiến hành để đáp lại những chiến dịch ngầm của Mỹ ở vùng vịnh. Một cuộc đụng độ thứ hai, từng được cho là đã xảy ra vào ngày 4 tháng Tám năm 1964, là giữa tàu của VNDCCH và Hoa Kỳ trong vùng biển vịnh Bắc Bộ. Hoa Kỳ ban đầu đổ lỗi cho VNDCCH cho cả hai sự kiện. Điều tra sau này cho thấy cuộc tấn công lần thứ hai chưa từng xảy ra; báo cáo của hải quân Mỹ đã dựa trên hầu hết các tín hiệu liên lạc đã bị họ diễn giải sai.
Vào ngày 2 tháng Tám năm 1964, tàu khu trục , khi đang thực hiện tuần tra tình báo tín hiệu, một phần trong các chiến dịch DESOTO, đã bị ba tàu phóng lôi P-4 của đội Ngư lôi 135 của Hải quân Nhân dân Việt Nam tiếp cận. Tàu Maddox đã "bình an vô sự ngoại trừ một lỗ đạn duy nhất từ loạt đạn súng máy của Việt Nam". Năm 1995, McNamara gặp cựu Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp để hỏi chuyện xảy ra vào ngày 4 tháng Tám năm 1964. Ông Giáp nói "Hoàn toàn chẳng có gì xảy ra cả". Ông Giáp cho rằng vụ tấn công chỉ là tưởng tượng. Năm 2005, một nghiên cứu lịch sử nội bộ của Cơ quan An ninh Quốc gia đã được giải mật; nó kết luận rằng Maddox đã giao chiến với Hải quân Nhân dân Việt Nam vào ngày 2 tháng Tám, nhưng sự kiện ngày 4 tháng Tám là dựa trên thông tin tình báo kém chất lượng của Hải quân Mỹ và các thông tin liên lạc của VNDCCH đã bị trình bày sai. Đến năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm đã phải đối mặt với sự bất bình đáng kể của một vài phần dân số miền Nam, trong đó có một số Phật tử chống lại chế độ cai trị của những người ủng hộ Diệm theo Công giáo. Các cán bộ chính trị của Việt Minh, những người đang hoạt động hợp pháp cho sự tiến hành của các cuộc bầu cử đã được hứa từ năm 1955 đến 1957, đã bị chính phủ đàn áp. Vào tháng Ba năm 1956, giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua các biện pháp dự kiến sẽ phục hồi cuộc nổi dậy ở miền Nam vào tháng Mười Hai năm 1956. Một cuộc nổi dậy do cộng sản lãnh đạo bắt đầu chống lại chính phủ của Diệm vào tháng Tư năm 1957. Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua một "cuộc chiến tranh nhân dân" ở miền Nam tại một phiên họp vào tháng Một năm 1959, và vào ngày 28 tháng Bảy, các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xâm nhập Lào để duy trì và nâng cấp đường mòn Hồ Chí Minh, hỗ trợ quân nổi dậy ở miền Nam. Cuộc nổi dậy, do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (Việt Cộng) đứng đầu dưới sự chỉ đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã bùng phát dữ dội vào năm 1961. Khoảng 40.000 chiến sĩ cộng sản đã xâm nhập vào miền Nam từ năm 1961 đến năm 1963. trái|nhỏ|Tàu phóng lôi có động cơ Nasty của Na Uy Một chương trình tuyệt mật về các chiến dịch bí mật chống lại miền Bắc Việt Nam, được gọi là Kế hoạch Chiến dịch 34-Alpha, kết hợp với các chiến dịch DESOTO, đã bắt đầu dưới sự quản lý của Cục Tình báo Trung ương (CIA) vào năm 1961. Năm 1964, chương trình được chuyển giao cho Bộ Quốc phòng và do Nhóm Nghiên cứu và Quan sát thuộc Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV-SOG) thực hiện. Đối với phần đường thủy của chiến dịch bí mật, một bộ tàu tuần tra nhanh đã được âm thầm mua từ Na Uy và gửi đến miền Nam Việt Nam. Năm 1963, ba thuyền trưởng trẻ người Na Uy đi thực hiện một nhiệm vụ ở miền Nam Việt Nam. Họ được tuyển dụng bởi sĩ quan tình báo Na Uy Alf Martens Meyer. Martens Meyer, người đứng đầu bộ phận nhân viên tình báo quân đội, đã hoạt động thay mặt cho tình báo Hoa Kỳ. Ba thuyền trưởng không biết Meyer thực sự là ai khi họ đồng ý làm công việc có họ liên quan trong các nhiệm vụ phá hoại chống lại miền Bắc Việt Nam.
Mặc dù các thuyền được điều khiển bởi những nhân viên hải quân Việt Nam Cộng hoà, mỗi nhiệm vụ là do Đô đốc Grant Sharp Jr. trực tiếp phê duyệt, thuộc Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (United States Pacific Command - USPACOM) ở Honolulu, theo lệnh Nhà Trắng. Sau khi các cuộc tấn công ven biển bắt đầu, Hà Nội, thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), đã nộp đơn khiếu nại lên Ủy ban Kiểm soát Quốc tế (ICC), được thành lập vào năm 1954 để giám sát các điều khoản của Hiệp định Genève, nhưng Hoa Kỳ phủ nhận bất kỳ dính líu nào. Bốn năm sau, Bộ trưởng McNamara thừa nhận trước Quốc hội rằng các tàu Hoa Kỳ trên thực tế đã hợp tác với Việt Nam Cộng hòa tấn công chống lại VNDCCH.
Năm 1962, Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu chương trình hỗ trợ tác chiến điện tử (thu thập thông tin tình báo), được thực hiện bằng các cuộc tuần tra khu trục hạm ở tây Thái Bình Dương, với tên gọi DESOTO. Các nhiệm vụ đầu tiên ở Vịnh Bắc Bộ bắt đầu vào tháng Hai năm 1964. Mặc dù thông tin tình báo do các nhiệm vụ DESOTO thu thập có thể được sử dụng bởi các nhà lập kế hoạch và chỉ huy OPLAN-34A, chúng là các chương trình riêng biệt không phải để phối hợp lập kế hoạch nhiệm vụ, chỉ để cảnh cáo các tàu tuần tra của DESOTO tránh xa các khu vực hoạt động của 34A.
Sự kiện
Daniel Ellsberg, người trực ở Lầu Năm Góc đêm 4 tháng Tám, nhận được liên lạc từ USS Maddox, báo cáo rằng nó đang thực hiện một nhiệm vụ DESOTO gần lãnh hải miền Bắc Việt Nam. Ngày 31 tháng Bảy năm 1964, Maddox bắt đầu nhiệm vụ của mình tại Vịnh Bắc Bộ. Thuyền trưởng George Stephen Morrison chỉ huy các lực lượng địa phương của Mỹ từ soái hạm . Maddox được lệnh không được đến gần hơn tám dặm (13 km) từ bờ biển Bắc Việt Nam và bốn dặm (6 km) từ đảo Hòn Niêu. Khi cuộc tập kích của biệt kích MACV-SOG nhằm vào Hòn Niêu, con tàu đã đi được cách xa khu vực bị tấn công. Maddox tuyên bố rằng nó đã tránh được một cuộc tấn công bằng ngư lôi và nổ pháo 5 inch (127 mm), buộc các tàu phóng lôi tránh xa. Hai trong số các tàu phóng lôi đã đến gần trong vòng cách Maddox và mỗi tàu thả một quả ngư lôi, nhưng không quả nào hoạt động; chúng chỉ cách Maddox khoảng sau khi Maddox chạy nhanh hơn chúng.
phải|nhỏ|Một chiếc P-4 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giao chiến với USS Maddox, ngày 2 tháng Tám năm 1964
Những người khác, chẳng hạn như Đô đốc Sharp, khẳng định rằng các hành động của Hoa Kỳ không kích động sự kiện ngày 2 tháng Tám. Ông tuyên bố rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã theo dõi Maddox dọc theo bờ biển bằng radar và do đó đã biết rằng tàu khu trục không thực sự tấn công Bắc Việt Nam và Hà Nội (hoặc chỉ huy địa phương) đã ra lệnh cho tàu của mình giao chiến với Maddox. Tướng Phùng Thế Tài sau đó tuyên bố rằng Maddox đã bị theo dõi từ ngày 31 tháng Bảy và nó đã tấn công các tàu đánh cá vào ngày 2 tháng Tám buộc Hải quân Nhân dân Việt Nam phải đánh trả.
Sharp cũng nói thêm rằng lệnh cho Maddox ở cách ngoài khơi bờ biển Bắc Việt Nam đã đưa tàu vào vùng biển quốc tế, vì VNDCCH tuyên bố giới hạn chủ quyền chỉ cách bờ (hoặc quanh các đảo xa bờ). Ngoài ra, trước đó nhiều quốc gia đã thực hiện các nhiệm vụ tương tự trên khắp thế giới, và tàu khu trục trước đó đã thực hiện một nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo trong những trường hợp tương tự mà không xảy ra sự cố.
Tuy nhiên, tuyên bố của Sharp bao gồm một số nhận định không chính xác. VNDCCH không tuân theo giới hạn 8 km (5 mi) của lãnh hải; thay vào đó, họ tuân theo một giới hạn mà Đông Dương thuộc Pháp tuyên bố vào năm 1936. Hơn nữa, họ chính thức tuyên bố một giới hạn 12 hải lý, trên thực tế giống với tuyên bố 20 km cũ của Pháp, sau những sự kiện trong tháng Tám, vào tháng Chín năm 1964. Lập trường của VNDCCH là họ luôn có một giới hạn 12 hải lý, phù hợp với lập trường về luật biển của cả Liên Xô và Trung Quốc, những đồng minh chính của VNDCCH. Trong một buổi tối thời tiết sóng gió và biển động, các tàu khu trục nhận được tín hiệu radar, sonar và radio; họ tin rằng các tín hiệu này báo hiệu một cuộc tấn công khác của Hải quân Nhân dân Việt Nam. Trong khoảng hai giờ (từ khoảng 21:40 đến khoảng 23:35, giờ địa phương), các tàu đã bắn vào các mục tiêu hiển thị trên radar và lái tàu quyết liệt dựa trên các báo cáo điện tử và thị giác về kẻ thù. Ngược lại với tuyên bố của Hải quân Mỹ rằng hai tàu phóng lôi tấn công đã bị đánh chìm, đã không có mảnh vỡ hay thi thể nào của các thủy thủ Việt Nam thiệt mạng, hoặc các bằng chứng vật thể khác có mặt tại hiện trường được cho là đã xảy ra giao tranh.
Vào lúc 01:27 giờ địa phương (13:27 giờ Washington), Herrick đã gửi một bức điện trong đó ông thừa nhận rằng cuộc tấn công thứ hai có thể đã không xảy ra và thực tế có thể đã không có tàu thuyền nào của Việt Nam trong khu vực: "Suy xét lại hoạt động làm cho nhiều các lần chạm trán và ngư lôi bị bắn [nhằm vào tàu Mỹ] được báo cáo trông có vẻ đáng nghi ngờ. Các hiệu ứng thời tiết kỳ lạ lên radar và những người điều hành sonar quá khích có thể là nguyên nhân của nhiều báo cáo. Không có hình ảnh trực quan thực tế nào của Maddox. Đề xuất điều tra hoàn chỉnh trước khi thực hiện thêm bất kỳ hành động nào."
Một giờ sau, Herrick gửi một bức điện khác, nói rằng, "Toàn bộ hoạt động để lại nhiều nghi ngờ ngoại trừ phục kích dường như đã xảy ra lúc đầu. Đề nghị trinh sát kỹ lưỡng vào ban ngày bằng máy bay." Đáp lại yêu cầu xác nhận, vào khoảng 16:00 giờ Washington, Herrick thông báo: "Các chi tiết của hoạt động đưa ra một bức tranh khó hiểu mặc dù chắc chắn rằng cuộc phục kích ban đầu là có thật." Vào lúc 18:00 giờ Washington (05:00 ở Vịnh Bắc Bộ), Herrick lại gửi bức điện lần nữa, lần này nói rằng “chiếc thuyền đầu tiên gần tàu Maddox có lẽ đã phóng ngư lôi vào tàu Maddox ai cũng nghe được nhưng không ai thấy. Tất cả các báo cáo về ngư lôi Maddox sau đó đều đáng ngờ ở chỗ người ta cho rằng người điều hành sonar đã nghe thấy tiếng đập chân vịt của chính con tàu [Maddox]". Bài phát biểu của Johnson lặp lại chủ đề "kịch tính hóa Hà Nội/Hồ Chí Minh như kẻ xâm lược và khiến Hoa Kỳ rơi vào thế phòng thủ dễ chấp nhận hơn."
Ông nhấn mạnh cam kết với cả người dân Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Ông cũng nhắc nhở người Mỹ rằng không có mong muốn chiến tranh. "Xem xét kỹ lưỡng các tuyên bố công khai của Johnson ... không thấy đề cập đến việc chuẩn bị cho chiến tranh công khai và không có dấu hiệu nào về bản chất và mức độ của các biện pháp trên bộ và đường không bí mật đã trong hoạt động." Các tuyên bố của Johnson ngắn gọn để "giảm thiểu vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc xung đột; một sự mâu thuẫn rõ ràng đã tồn tại giữa các hành động của Johnson và bài phát biểu trước công chúng của ông."
Trong vòng ba mươi phút sau sự kiện ngày 4 tháng Tám, Johnson đã quyết định tấn công trả đũa (được gọi là "Chiến dịch Mũi tên Xuyên"). Cùng ngày hôm đó, ông đã sử dụng "đường dây nóng" tới Moskva, và đảm bảo với Liên Xô rằng ông không có ý định mở một cuộc chiến tranh quy mô lớn hơn ở Việt Nam. Sáng sớm ngày 5 tháng Tám, Johnson công khai ra lệnh các biện pháp trả đũa với tuyên bố: "Quyết tâm của tất cả người Mỹ trong việc thực hiện cam kết đầy đủ của chúng ta đối với người dân và chính phủ Việt Nam Cộng hoà sẽ được nhân đôi bởi sự phẫn nộ này." Một giờ bốn mươi phút sau bài phát biểu của ông, các máy bay được phóng từ các tàu sân bay Hoa Kỳ đã đến các mục tiêu của Bắc Việt Nam. Vào ngày 5 tháng Tám, lúc 10:40, các máy bay này đã ném bom bốn căn cứ tàu phóng lôi và một kho chứa dầu ở Vinh.
Phản ứng từ Quốc hội
trái|nhỏ|Wayne Morse Trong khi nghị quyết cuối cùng của Johnson đang được soạn thảo, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Wayne Morse đã cố gắng tổ chức một buổi quyên góp để nâng cao nhận thức về các báo cáo có thể sai sót về vụ việc liên quan đến tàu Maddox. Morse được cho là đã nhận một cuộc gọi từ một người cung cấp thông tin giấu tên yêu cầu Morse điều tra nhật ký chính thức của Maddox. Những nhật ký này không có sẵn trước khi nghị quyết của Johnson được trình bày trước Quốc hội. Nhiều nguồn tin khác nhau, bao gồm tạp chí Time, Life và Newsweek, đã đăng các bài báo trong suốt tháng Tám về sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Tờ Time đưa tin: "Xuyên qua bóng tối, từ phía Tây và phía nam ... những kẻ xâm nhập đã mạnh dạn tăng tốc ... ít nhất sáu trong số chúng ... đã nổ súng vào các khu trục hạm bằng vũ khí tự động, lần này là từ cự ly gần tận 2.000 bộ." Tờ Time tuyên bố rằng "không còn nghi ngờ gì trong tâm trí Sharp rằng Mỹ sẽ phải đáp lại cuộc tấn công này", và không có cuộc tranh luận hay nhầm lẫn nào trong nội bộ chính quyền liên quan đến vụ việc. Vào ngày 4 tháng Năm năm 1964, William Bundy đã kêu gọi Hoa Kỳ "đánh đuổi những người cộng sản ra khỏi Nam Việt Nam", ngay cả khi điều đó có nghĩa là tấn công cả Bắc Việt Nam và nước Trung Quốc cộng sản.
Theo Ray McGovern, nhà phân tích CIA từ năm 1963 đến 1990, CIA, “chưa kể Tổng thống Lyndon Johnson, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara và Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy đều biết rõ rằng bằng chứng của bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào vào tối ngày 4 tháng Tám, 1964, cái gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ 'lần thứ hai', rất đáng ngờ. ... Trong mùa hè năm 1964, Tổng thống Johnson và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân mong muốn mở rộng cuộc chiến ở Việt Nam. Họ tăng cường phá hoại và tấn công "đánh-rồi-rút" vào bờ biển miền Bắc Việt Nam”. Tàu Maddox, mang theo thiết bị gián điệp điện tử, là để thu thập thông tin tình báo tín hiệu từ bờ biển Bắc Việt Nam, và các cuộc tấn công ven biển được coi là một cách hiệu quả để khiến VNDCCH bật radar ven biển của họ. Vì mục đích này, nó được phép tiếp cận bờ biển gần đến tận 13 km (8 mi) và các đảo xa bờ đến tận bốn (kilômét); vùng đảo xa đã bị pháo kích từ biển từ trước rồi.
Trong cuốn sách của mình, Body of Secrets, James Bamford, người đã trải qua ba năm trong Hải quân Hoa Kỳ với tư cách là một nhà phân tích tình báo, viết rằng mục đích chính của tàu Maddox "là hoạt động như một kẻ khiêu khích đi biển—để chọc mũi tàu màu xám sắc nhọn của nó và Lá cờ Hoa Kỳ càng sát bụng Bắc Việt Nam càng tốt, thực chất nhồi nhét những khẩu đại bác năm inch của nó lên mũi của hải quân cộng sản. ... Nhiệm vụ của Maddox thậm chí còn khiêu khích hơn khi được hẹn giờ trùng với các cuộc đột kích của biệt kích, tạo ra ấn tượng rằng Maddox đang chỉ đạo các nhiệm vụ đó ..." Vì vậy, VNDCCH có mọi lý do để tin rằng Maddox có liên quan đến những hành vi này.
John McNaughton đề nghị vào tháng Chín năm 1964 rằng Hoa Kỳ chuẩn bị thực hiện các hành động kích động phản ứng quân sự của VNDCCH, bao gồm cả kế hoạch sử dụng DESOTO tuần tra phía Bắc. Bài báo của William Bundy ngày 8 tháng Chín năm 1964, cũng đề xuất thêm các cuộc tuần tra DESOTO.
right|thumb|upright=1|Nghị quyết vịnh Bắc Bộ
McNamara sau đó làm chứng rằng ông đã đọc tin nhắn sau khi trở về Lầu Năm Góc chiều hôm đó. Nhưng ông không gọi ngay cho Johnson để nói với Tổng thống rằng toàn bộ giả thuyết ông dựa trên để ông ra quyết định lúc ăn bữa trưa để chấp thuận khuyến nghị của McNamara cho phép các cuộc không kích trả đũa nhằm vào Bắc Việt Nam là rất đáng ngờ. Johnson đã chống lại các đề xuất từ McNamara và các cố vấn khác về chính sách ném bom miền Bắc Việt Nam đến bốn lần kể từ khi ông trở thành tổng thống.
Mặc dù tàu Maddox đã tham gia hỗ trợ thông tin tình báo cho các cuộc tấn công của Việt Nam Cộng hòa tại đảo Hòn Mê và Hòn Ngư, Johnson phủ nhận, trong lời khai trước Quốc hội, rằng Hải quân Hoa Kỳ đã hỗ trợ các hoạt động quân sự của Nam Việt ở vịnh Bắc Bộ. Do đó, ông cho rằng cuộc tấn công là "vô cớ" vì con tàu đã ở trong vùng biển quốc tế. Vì lời khai của ông, vào ngày 7 tháng Tám, Quốc hội đã thông qua một nghị quyết chung (nghị quyết được cả Hạ viện và Thượng viện thông qua) (HJ RES 1145), có tên là Nghị quyết Đông Nam Á (hay Nghị quyết vịnh Bắc Bộ), trong đó trao quyền cho Johnson tiến hành các hoạt động quân sự ở Đông Nam Á mà không cần phải tuyên chiến. Nghị quyết đã chấp thuận cho phép Johnson "thực hiện tất cả các bước cần thiết, bao gồm cả việc sử dụng vũ trang, để hỗ trợ bất kỳ quốc gia thành viên hoặc quốc gia nghi thức ngoại giao nào của Hiệp ước Phòng thủ Tập thể Đông Nam Á yêu cầu hỗ trợ để bảo vệ sự tự do của mình."
Những lời khai sau đó về sự kiện
Johnson bình luận riêng: "Tôi chỉ biết là, hải quân của chúng ta đang bắn cá voi ngoài đó."
Năm 1967, cựu sĩ quan hải quân John White đã viết thư cho biên tập viên của New Haven (CT) Register. Ông khẳng định "Tôi giữ vững quan điểm rằng Tổng thống Johnson, Bộ trưởng McNamara và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã cung cấp thông tin sai lệch cho Quốc hội trong báo cáo của họ về việc các tàu khu trục Mỹ bị tấn công ở Vịnh Bắc Bộ." White tiếp tục các hoạt động tố giác của mình trong bộ phim tài liệu Trong Năm Hợi năm 1968. trái|nhỏ|Bản đồ trên tạp chí [[All Hands (Mọi bàn tay [góp sức]) của Hải quân Hoa Kỳ]]Năm 1981, thuyền trưởng Herrick và nhà báo Robert Scheer đã kiểm tra lại nhật ký của tàu của thuyền trưởng Herrick và xác định rằng báo cáo ngư lôi đầu tiên từ ngày 4 tháng Tám mà Herrick khẳng định đã xảy ra—"cuộc phục kích dường như đã xảy ra"—thực tế là không có cơ sở.
Chỉ huy Đội máy bay James Stockdale là một trong những phi công Hoa Kỳ bay trên trời trong cuộc tấn công bị cho rằng đã xảy ra lần thứ hai. Stockdale viết trong cuốn sách Tình yêu và Chiến tranh năm 1984 của mình: "[Tôi] có chỗ ngồi tốt nhất để theo dõi sự kiện đó, và các tàu khu trục của chúng tôi chỉ đang bắn vào các mục tiêu ảo—không có tàu phóng lôi tuần tra nào ở đó ... Không có gì ở đó ngoài nước đen và sức mạnh của hỏa lực Mỹ." Stockdale kể lại rằng đã thấy tàu Turner Joy chĩa pháo vào tàu Maddox. Stockdale cho biết cấp trên đã ra lệnh cho anh ta giữ im lặng về vụ này. Sau khi anh ta bị bắt, kiến thức này trở thành một gánh nặng. Sau đó, anh nói anh ấy lo ngại rằng những kẻ bắt giữ anh cuối cùng sẽ buộc anh phải tiết lộ những gì anh biết về sự kiện thứ hai. Đoạn băng ghi âm cuộc họp vài tuần sau khi Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ được thông qua công bố vào năm 2001 cho thấy McNamara bày tỏ nghi ngờ với Johnson rằng liệu cuộc tấn công thực sự đã xảy ra.
Vào mùa thu năm 1999, Giám đốc Kỹ thuật cấp cao của CIA S. Eugene Poteat đã nghỉ hưu viết rằng vào đầu tháng Tám năm 1964, ông đã được yêu cầu xác định xem báo cáo của người điều hành radar có thực sự cho thấy một cuộc tấn công bằng tàu phóng lôi hay một cuộc tấn công tưởng tượng. Anh ta hỏi thêm chi tiết về thời gian, thời tiết và điều kiện bề mặt biển. Ông không thêm thông tin nào. Cuối cùng, ông kết luận rằng không có tàu phóng lôi nào vào đêm ngày 4 và Nhà Trắng chỉ quan tâm xác nhận một cuộc tấn công, chứ không có nghĩa không có cuộc tấn công nào như vậy.
Vào tháng Mười năm 2012, Chuẩn đô đốc về hưu Lloyd "Joe" Vasey đã được phỏng vấn bởi David Day trên Asia Review và trình bày chi tiết về vụ việc ngày 4 tháng Tám. Theo Đô đốc Vasey, người trên tàu , một tàu tuần dương lớp Galveston mang tên lửa điều khiển, ở Vịnh Bắc Bộ và là tham mưu trưởng của Tư lệnh Hạm đội Bảy, Turner Joy đã thu nhận được một đường truyền vô tuyến của quân đội Bắc Việt ra lệnh cho một tàu phóng lôi tấn công Turner Joy và Maddox. Ngay sau đó, tàu USS Turner Joy có thông tin radar của "một số vật thể tốc độ cao đang tiến gần [hai tàu]", và tập trung vào một trong các vật thể, khai hỏa và bắn trúng tàu phóng lôi. Có 18 nhân chứng, cả nhập ngũ và sĩ quan, đã báo cáo các khía cạnh khác nhau của cuộc tấn công; khói từ tàu phóng lôi bị chìm, sóng từ ngư lôi (do bốn cá nhân trên mỗi tàu khu trục báo cáo), cảnh tượng tàu phóng lôi di chuyển trên mặt nước và đèn rọi. Tất cả 18 nhân chứng đã làm chứng tại một phiên điều trần ở Olongapo, Philippines, và lời khai của họ ở trong các tài liệu công khai. phải|nhỏ|Võ Nguyên Giáp Vào năm 2014, khi lễ kỷ niệm 50 năm sự kiện đến gần, John White đã viết Sự kiện Vịnh Bắc Bộ—50 năm sau: Một chú thích cho Lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Trong lời nói đầu, ông ghi "Trong số rất nhiều cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam, nửa tá cuốn ghi chú một bức thư năm 1967 gửi cho biên tập viên của một tờ báo ở Connecticut có vai trò làm công cụ gây áp lực buộc chính quyền Johnson phải nói sự thật về cuộc chiến bắt đầu như thế nào. Bức thư là của tôi." Cuốn sách thảo luận về việc Trung úy White đọc cuốn Trong Tình yêu và Chiến tranh
Báo cáo của Cơ quan An ninh Quốc gia
Vào tháng 10 năm 2005, Tờ New York Times đưa tin rằng Robert J. Hanyok, một nhà sử học của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA), kết luận rằng các báo cáo tình báo bị bóp méo của NSA đã được chuyển cho các nhà hoạch định chính sách liên quan đến vụ việc ngày 4 tháng Tám. Nhà sử học NSA cho biết nhân viên cơ quan đã "cố tình làm xiên xẹo" bằng chứng để khiến nó trông có vẻ như một cuộc tấn công đã xảy ra. khoảng năm năm trước bài báo của Times. Theo các quan chức tình báo, quan điểm của các nhà sử học chính phủ rằng báo cáo của Hanyok nên được công bố đã bị các nhà hoạch định chính sách bác bỏ vì lo ngại rằng người ta có thể so sánh với thông tin tình báo được sử dụng để biện minh cho Chiến tranh Iraq (Chiến dịch Tự do Iraq) bắt đầu vào năm 2003.
Xem xét các tài liệu lưu trữ của NSA, Hanyok kết luận rằng sự kiện ngày 4 tháng Tám bắt đầu tại Căn cứ Chiến đấu Phú Bài (Huế), nơi các nhà phân tích tình báo nhầm tưởng rằng các tàu khu trục sẽ sớm bị tấn công. Điều này lẽ ra phải được thông báo lại cho NSA cùng với bằng chứng củng cố một kết luận như vậy, nhưng trên thực tế, bằng chứng không làm được điều đó. Hanyok cho rằng điều này là do NSA có thể đã tin tưởng các nhà phân tích nếu như gần gũi hơn với sự kiện này. Khi buổi tối đến, thêm các thông tin tình báo tín hiệu (SIGINT) không củng cố bất kỳ cuộc phục kích nào như vậy, nhưng các nhân viên NSA dường như đã bị thuyết phục về một cuộc tấn công đến mức họ bỏ qua 90% thông tin tình báo tín hiệu không củng cố được kết luận đó, và điều này cũng bị loại trừ khỏi bất kỳ báo cáo nào họ đưa ra để cho tổng thống xem. Không có động cơ chính trị cho hành động của họ.
Vào ngày 30 tháng Mười Một năm 2005, NSA đã công bố phần đầu tiên của thông tin đã được giải mật liên quan đến sự kiện Vịnh Bắc Bộ, bao gồm một phiên bản mà bài báo của Hanyok đã được cắt xén ở mức độ vừa phải.
Về lý do tại sao điều này xảy ra, Hanyok viết:
Hanyok đã đưa nghiên cứu của mình về Vịnh Bắc Bộ như một chương trong lịch sử tổng thể về sự tham gia của NSA và SIGINT của Mỹ, trong các cuộc Chiến tranh Đông Dương. Một phiên bản được cắt xén (những thông tin nhạy cảm) vừa phải của lịch sử tổng thể đã được Cơ quan An ninh Quốc gia phát hành vào tháng Một năm 2008 và được xuất bản bởi Liên đoàn các Nhà khoa học Hoa Kỳ.