✨Stargate

Stargate

Stargate là một thương hiệu truyền thông khoa học viễn tưởng quân sự thuộc sở hữu của Amazon MGM Studios. Thương hiệu bắt đầu và dựa trên bộ phim điện ảnh cùng tên do Roland Emmerich đạo diễn và đồng biên kịch với Dean Devlin; StudioCanal là công ty sở hữu bản quyền của bộ phim gốc. Thương hiệu này dựa trên ý tưởng về một thiết bị lỗ sâu của người ngoài hành tinh tên gọi Stargate (hay Cổng Sao) cho phép du hành gần như tức thời qua vũ trụ.

Cốt truyện chính của phim kéo dài hơn 15 năm, bao gồm 18 mùa (364 tập) và 22 ấn bản truyện tranh tính đến tháng 1 năm 2020. Tuy nhiên, nhiều phiên bản khác lại bỏ qua mạch chính này hoặc thiết lập lại nó, trong khi vẫn duy trì các yếu tố thiết yếu định hình nên thương hiệu (chủ yếu là việc đưa vào thiết bị Stargate). Bao gồm cả loạt phim hoạt hình Stargate Infinity năm 2002.

Quá trình phát triển

Loạt phim bắt đầu với bộ phim điện ảnh Stargate, phát hành năm 1994, bởi Metro-Goldwyn-Mayer và Carolco. Năm 1997, Brad Wright và Jonathan Glassner đã tạo ra một loạt phim truyền hình có tựa đề Stargate SG-1 như phần tiếp theo của bộ phim. Sau đó được nối tiếp với loạt phim Stargate Atlantis vào năm 2004, Stargate Universe vào năm 2009 và loạt phim tiền truyện trên web Stargate Origins vào năm 2018. Cùng một câu chuyện trên là nhiều đầu sách, trò chơi điện tử và truyện tranh, cũng như các bộ phim video như Stargate: Children of the Gods, Stargate: The Ark of TruthStargate: Continuum.

Năm 2011, khi chương trình Stargate cuối cùng trên truyền hình là Stargate Universe kết thúc. Brad Wright tuyên bố rằng không còn kế hoạch nào để tiếp tục câu chuyện tương tự trong các sản phẩm tiếp theo. Vào năm 2016, nhà xuất bản truyện tranh American Mythology đã mua lại bản quyền để xuất bản loạt truyện Stargate Atlantis mới, lấy bối cảnh trong loạt truyện đã có sẵn. Nó được mở rộng vào năm 2017 bao gồm cả truyện tranh Stargate Universe mới, giải quyết tình tiết ở cuối loạt phim cùng tên.

Phát hành

Do nhiều nhà phát triển làm việc riêng rẽ và độc lập dựa trên thương hiệu trong nhiều năm, các sản phẩm Stargate khác nhau không hoàn toàn nhất quán và mặc dù không có bộ tác phẩm nào trở thành một quy chuẩn chính thức, nhưng lượng người theo dõi lớn nhất vẫn thuộc về ba loạt phim người đóng. nhỏ|Mô phỏng thiết bị Cổng sao (Stargate)

Phim điện ảnh

Truyền hình

Phim tài liệu và bản đặc biệt

Phát hành trò chơi điện tử

  • Stargate: Timekeepers là một trò chơi điện tử chiến lược phát hành vào ngày 23 tháng 1 năm 2024 cho PC từ Slitherine và CreativeForge Games.
  • Stargate SG-1: Unleashed là một trò chơi phiêu lưu có sự góp mặt của đội SG-1 gốc dành cho Android và iOS do MGM và Arkalis Interactive phát triển.
  • Stargate: Resistance là trò chơi bắn súng trực tuyến góc nhìn thứ ba. Phiên bản này được phát hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2010. Sau đó đã bị hủy theo hợp đồng với MGM.
  • Stargate Worlds là một trò chơi nhập vai trực tuyến nhiều người chơi bị hủy bỏ khi đang được phát triển. Các biên kịch và nhà sản xuất của Stargate coi Stargate Worlds là một chương trình song song với bộ phim truyền hình chính thống.
  • Stargate SG-1: The Alliance là một trò chơi máy tính, dự kiến phát hành vào cuối năm 2005 nhưng đã bị hủy bỏ.
  • Trò chơi Thẻ bài Stargate (Stargate TCG) được phát hành vào tháng 5 năm 2007. Có sẵn ở cả dạng trực tuyến và bản in. Được thiết kế bởi Sony Online Entertainment và được xuất bản bởi Comic Images.
  • Trò chơi nhập vai Stargate là trò chơi nhập vai được sản xuất bởi Alderac Entertainment. Nó được xem là kinh điển bởi cả nhà xuất bản và nhân viên của MGM. Tuy nhiên, khi Sony mua lại MGM, họ đã mất giấy phép sản xuất các sản phẩm nhập vai và giấy phép cũng không còn được chuyển nhượng nữa.
  • Vào năm 2021, Wyvern Gaming đã sản xuất một game nhập vai Stargate SG-1 khác, được xây dựng trên hệ thống Dungeons & Dragons 5e. Việc Amazon Studios mua lại MGM đã làm gián đoạn hoặc hủy bỏ việc cấp phép và phát triển các bản mở rộng trò chơi.
  • Hai trò chơi điện tử dựa trên bộ phim đã được Acclaim Entertainment phát hành: một trò chơi nền tảng cuộn cảnh cùng tên ra mắt năm 1995 cho hệ máy Super Nintendo Entertainment System và Sega Genesis, và một trò chơi điện tử giải đố giống Tetris cho hệ máy Game Gear và Game Boy.
  • Có ba công viên giải trí sử dụng trò chơi mô phỏng mang tên Stargate SG-3000 là Six Flags Kentucky Kingdom, Six Flags Great America và Six Flags Marine World.
  • Trò chơi pinball Stargate được sản xuất bởi Gottlieb.

    Phim chiếu rạp

    Stargate

    Bộ phim Stargate ra mắt năm 1994, do Roland Emmerich đạo diễn và Emmerich cùng Dean Devlin đồng biên kịch, tập trung vào quá trình "tái khám phá" ban đầu về Stargate trên Trái Đất và chuyến thám hiểm đầu tiên.

Bộ phim kể về một nhóm do Đại tá Jack O'Neil (Kurt Russell đóng) chỉ huy và bao gồm nhà Ai Cập học Daniel Jackson (James Spader đóng) mạo hiểm đi qua Cổng sao đến hành tinh Abydos, phát hiện ra một xã hội của những người nói tiếng Ai Cập cổ đại do một du hành gia ngoài hành tinh đóng giả là thần mặt trời Ra của Ai Cập cổ đại cai trị. Cuối cùng, đoàn thám hiểm đã giải phóng được xã hội này khỏi sự kiểm soát của người ngoài hành tinh, đồng thời tiêu diệt nó trước khi những người sống sót (trừ Daniel) trở về Trái đất.

Truyền hình

Stargate SG-1

nhỏ|Biểu trưng phim Stargate SG-1 Năm 1997, Jonathan Glassner và Brad Wright đã cùng nhau phát triển loạt phim truyền hình Stargate SG-1, nhằm tiếp tục cốt truyện bộ phim gốc. Mặc dù với diễn viên mới, một số vai diễn vẫn được giữ lại, bao gồm các nhân vật chính Daniel Jackson và Jack O'Neill (được viết lại để thêm vào chữ "L"). Bối cảnh được chuyển từ cơ sở quân sự hư cấu nằm ở Creek Mountain đến Stargate Command có trụ sở tại Cheyenne Mountain Complex. Tám mùa đầu tiên tập trung vào những nỗ lực của Stargate Command nhằm chống lại Goa'uld – chủng tộc mà người ngoài hành tinh tự nhận mình là Ra thuộc về – và các thủ lĩnh của họ được gọi là System Lords, trong khi giải phóng những con người mà họ đã bắt làm nô lệ trên khắp thiên hà cũng như đội quân nô lệ gồm những người đột biến được gọi là Jaffa. Trong hai mùa cuối, một mối đe dọa mới xuất hiện là Ori, được lấy cảm hứng từ truyền thuyết về vua Arthur.

Bộ phim ra mắt trên hệ thông truyền hình Showtime vào ngày 27 tháng 7 năm 1997 và chuyển sang Kênh Sci-Fi sau mùa thứ năm.

The Ark of Truth, ContinuumChildren of the Gods

Stargate: The Ark of Truth được phát hành trực tiếp trên DVD năm 2008, do Robert C. Cooper viết kịch bản và đạo diễn. Bộ phim tiếp nối và kết thúc phần về Ori trong Stargate SG-1, nhưng diễn ra trước phần thứ tư của Stargate Atlantis.

Stargate: Continuum được phát hành trực tiếp trên DVD vào năm 2008, do Brad Wright viết kịch bản và Martin Wood đạo diễn. Bộ phim là cuộc phiêu lưu du hành thời gian và là loạt phim thứ hai tiếp nối Stargate SG-1, sau Stargate: The Ark of Truth.

Stargate: Children of the Gods được phát hành trực tiếp trên DVD năm 2009, do Jonathan Glassner và Brad Wright biên kịch và Mario Azzopardi đạo diễn. Tập phim thí điểm của Stargate SG-1 đã được cắt lại thành tập phim đặc biệt thứ ba về Stargate SG-1 phát hành trực tiếp trên DVD.

Atlantis

nhỏ|Biểu trưng phim Stargate Atlantis Stargate Atlantis là loạt phim truyền hình ăn theo Stargate SG-1 được công chiếu vào tháng 7 năm 2004. Sau những lần SG-1 được gia hạn thêm phần mới nó cũng được dự định trở thành phần tiếp theo của mùa 6 rồi mùa 7. Cuối cùng, khi SG-1 được gia hạn cho mùa 8, bộ phim đã trở thành tập phim cuối của mùa gồm hai phần có tựa đề "Lost City", và bối cảnh của Stargate Atlantis đã được chuyển đến thiên hà Pegasus. Điều này cho phép hai chương trình tồn tại song song trong cùng một vũ trụ hư cấu và sau đó hai chương trình thậm chí còn có mối liên hệ với nhau. Atlantis được phát triển bởi gần như cùng một đội ngũ và trong cùng một studio với SG-1.

Universe

nhỏ|Biểu trưng phim Stargate Origins Stargate Universe là loạt phim người đóng thứ ba của Stargate, được công chiếu vào tháng 10 năm 2009. Bộ truyện đã chọn chiếu trên kênh Sci Fi Channel vào mùa thu năm 2007, cuộc đình công của các nhà biên kịch sau đó đã khiến dự án phải tạm dừng. Sci Fi Channel đã đặt hàng Universe sau khi thông báo hủy bỏ Stargate Atlantis. Tập cuối cùng được phát sóng vào ngày 9 tháng 5 năm 2011.

Stargate Origins

Loạt phim trực tuyến Stargate Origins đã được công bố tại Hội thảo San Diego Comic-Con vào tháng 7 năm 2017, nhân dịp kỷ niệm 20 năm ra mắt thương hiệu này. Phim tập trung vào nhân vật Catherine Langford và là phần tiền truyện của cả phim truyền hình và phim điện ảnh gốc. Loạt phim được công chiếu trực tuyến trên trang web Stargate Command vào ngày 15 tháng 2 năm 2018. nhỏ|Biểu trưng phim Stargate Infinity

Infinity

Stargate Infinity là loạt phim hoạt hình truyền hình ra mắt năm 2002, đây là sản phẩm được hợp tác giữa Mỹ và Pháp do Eric Lewald và Michael Maliani sáng tạo như một phần phụ của Stargate SG-1. Infinity lấy bối cảnh trong 30 năm sau Stargate SG-1, Cốt truyện không bao giờ được giải quyết vì lượng người xem thấp và chương trình đã bị hủy vào năm 2003.

Ấn bản văn học

Có ba loạt tiểu thuyết dựa trên thương hiệu Stargate, một dựa trên bộ phim Stargate gốc và hai dựa trên loạt phim truyền hình Stargate SG-1Stargate Atlantis. Một loạt sách được Bill McCay sáng tác và xuất bản từ năm 1995 đến 1999, là phần tiếp diễn không chính thức của bộ phim.

Từ năm 1999 đến 2001, New American Library đã xuất bản bốn tiểu thuyết dựa trên Stargate SG-1 do Ashley McConnell viết. Năm 2004, Fandemonium Press có trụ sở tại Anh đã bắt đầu một loạt tiểu thuyết mới dựa trên Stargate SG-1. Do xung đột với giấy phép của New American Library, những cuốn sách này chỉ phát hành được tại Úc, Canada, New Zealand, Nam Phi và Vương quốc Anh, mà không được lưu hành tại Hoa Kỳ. Những cuốn sách của Fandemonium được phép phát hành tại Hoa Kỳ từ năm 2006. Tạp chí Stargate chính thức, sản xuất bởi Titan Publishing, đã bắt đầu xuất bản những truyện ngắn do các tác giả của Fandemonium viết trong số thứ 8 của họ. Đây là những câu chuyện xen kẽ giữa SG-1Atlantis.

Một loạt truyện tranh dựa trên Stargate SG-1Stargate Atlantis được Avatar Press xuất bản từ năm 2003. Vào tháng 2 năm 2008, Big Finish Productions thông báo sẽ phát hành sách nói được cấp phép chính thức được đọc bởi dàn diễn viên của hai tựa phim.

Đón nhận

Stargate SG-1 đã giành được Giải thưởng Saturn cho Phim truyền hình được phát sóng nhiều lần và dàn diễn viên của phim cũng đã giành được những giải thưởng tương tự về diễn xuất. Vào ngày 21 tháng 8 năm 2006, Kênh Sci Fi thông báo rằng họ sẽ không gia hạn Stargate SG-1 cho mùa thứ mười một sau một loạt các thành tích kém cỏi trong bảng xếp hạng Nielsen. Nhiều người hâm mộ đã vô cùng tức giận trước tin tức này, thậm chí còn tạo ra các trang web để phản ứng nhằm thể hiện sự cam kết của họ đối với bộ truyện. Tuy nhiên, SciFi đã cố gắng ngăn chặn các hệ thống khác tiếp quản chương trình và viện dẫn hợp đồng độc quyền ban đầu của nó với MGM. Atlantis đã chứng tỏ được sự thành công như SG-1, xét về lượng người xem và tỷ suất người xem của Nielsen. Loạt phim Stargate năm 2009 đã giành được Giải thưởng Constellation ở hạng mục Đóng góp nổi bật của Canada cho Phim khoa học viễn tưởng hoặc Truyền hình năm 2008.

Theo Brad Wright, đồng sáng tạo ra Stargate SG-1Atlantis, chương trình này rất phổ biến ở Anh, Đức, Pháp và Úc, nhưng lượng người xem ở quê nhà Canada lại giảm dần. Khoảng ba mươi triệu đĩa DVD Stargate đã được bán trên toàn thế giới vào năm 2006.

Theo số liệu năm 2008, phiên bản DVD của Stargate: The Ark of Truth tại Hoa Kỳ đã mang về cho MGM/Fox 1,59 triệu USD tiền thuê trong tuần đầu tiên phát hành và thêm 1,38 triệu USD trong tuần thứ hai. Trong tuần thứ ba, nó đã kiếm được 1,19 triệu USD tiền thuê trong tổng số là 4,16 triệu USD. Stargate: Continuum cũng thu về hơn 8 triệu đô la Mỹ tại Hoa Kỳ. Một bộ phim Stargate SG-1 thứ ba đã được lên kế hoạch thực hiện sau Continuum, với nhân vật trung tâm là Jack O'Neill, nhưng dự án sau đó đã bị cầm chừng cùng với các dự án phim Stargate khác sau đó.

Đến năm 2010, Stargate ước tính đã mang về 1 tỷ USD cho nền kinh tế của British Columbia, trong 15 năm đầu của thương hiệu.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Stargate_** là một thương hiệu truyền thông khoa học viễn tưởng quân sự thuộc sở hữu của Amazon MGM Studios. Thương hiệu bắt đầu và dựa trên bộ phim điện ảnh cùng tên do Roland
"**Waterfall**" là đĩa đơn độc tấu đầu tay của bộ đôi sản xuất âm nhạc người Na Uy Stargate, với sự góp giọng của ca sĩ người Mỹ Pink và ca sĩ người Úc Sia.
**_Loud_** là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna, được hãng đĩa Def Jam Recordings và SRP Records phát hành lần đầu vào ngày 12 tháng 11 năm 2010. Ý
**_Xscape_** là album tổng hợp thứ hai được xuất bản sau khi nam ca sĩ người Mỹ Michael Jackson qua đời, bao gồm các bài hát chưa từng được phát hành trước đây của Jackson.
Bài viết này được dịch từ bản tiếng Anh: http://en.wikipedia.org/wiki/Kingsize_(Five_album) **Kingsize** là album studio thứ 3 và cũng là album cuối cùng của nhóm nhạc đến từ Anh Five, được phát hành vào năm 2001.
**_Unapologetic_** là album phòng thu thứ bảy của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna, được phát hành vào ngày 19 tháng 11 năm 2012 bởi hãng đĩa Def Jam Recordings. Album được thu âm từ
**_Prism_** (cách điệu bằng **_PRISM_**, tạm dịch: _Lăng kính_) là album phòng thu thứ tư của ca sĩ người Mỹ Katy Perry, phát hành bởi Capitol Records vào ngày 18 tháng 10 năm 2013. Bước
**Pop 2** là mixtape thứ tư của nữ ca sĩ người Anh Charli XCX, được hãng đĩa Asylum phát hành vào ngày 15 tháng 2 năm 2017. Dưới sự điều hành sản xuất của A.
**_Good Girl Gone Bad: Reloaded_** là phiên bản tái phát hành của album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna mang tên _Good Girl Gone Bad_ (2007). Album được phát hành
**_E=MC²_** là album phòng thu thứ 11 của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Mariah Carey, phát hành ngày 15 tháng 4 năm 2008 tại Hoa Kỳ bởi Island Records, Def Jam Recordings và
**_Discipline_** là album phòng thu thứ mười của ca sĩ người Mỹ Janet Jackson, phát hành ngày 22 tháng 2 năm 2008 bởi Island Records. Đây là album đầu tiên và duy nhất của Jackson
**_Femme Fatale_** là album phòng thu thứ bảy của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2011 bởi Jive Records. Đây là album cuối cùng của cô hợp tác
**_Talk That Talk_** là album phòng thu thứ sáu của ca sĩ Rihanna, phát hành vào ngày 18 tháng 11 năm 2011 bởi hãng đĩa Def Jam. Album bao gồm các ca khúc thuộc thể
**_Teenage Dream_** (tạm dịch: _Giấc mơ niên thiếu_) là album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Mỹ Katy Perry, _Teenage Dream_ cùng với những đĩa đơn trích từ album nhận được nhiều
**_I Look to You_** là album phòng thu thứ bảy và cũng là cuối cùng của ca sĩ người Mỹ Whitney Houston, phát hành ngày 28 tháng 8 năm 2009 bởi Arista Records. Đây là
**_S Club_** là album phòng thu đầu tay của nhóm nhạc pop người Anh S Club 7. Album được phát hành bởi hãng Polydor Records vào ngày 4 tháng 10 năm 1999 toàn thế giới.
**_Good Girl Gone Bad_** là album phòng thu thứ ba của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna, phát hành ngày 31 tháng 5 năm 2007, bởi Def Jam Recordings và SRP Records. Trong album
**_143_** (ngôn ngữ thông tục của **_I Love You_**) là album phòng thu thứ bảy của nữ ca sĩ người Mỹ Katy Perry. Album dự kiến sẽ được phát hành vào ngày 20 tháng 9
**_Spirit_** là album phòng thu đầu tay của ca sĩ người Anh Leona Lewis, phát hành tại Vương quốc Anh và Ireland vào ngày 9 tháng 11 năm 2007 bởi Syco Music, trước khi ra
**Confident** (tạm dịch: Tự tin) là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Demi Lovato. Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 10 năm 2015 bởi Hollywood, Island và
**_Rated R_** là album phòng thu thứ tư của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna, phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2009 bởi Def Jam Recordings. Quá trình thu âm cho album đã
**_Courage_** là album phòng thu tiếng Anh thứ 12 của nữ ca sĩ người Canada Celine Dion, được Columbia Records phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2019. Đây là album tiếng Anh đầu
**_This Is What the Truth Feels Like_** là album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Mĩ Gwen Stefani. Nó được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2016 thông qua Interscope
**_Teenage Dream: The Complete Confection_** là album phòng thu tái phát hành của ca sĩ người Mỹ Katy Perry từ album _Teenage Dream_ (2010). Nó được phát hành vào ngày 23 tháng 3 năm 2012
**Giải Sao Thổ cho loạt phim truyền hình cáp hay nhất** là một trong các giải Sao Thổ dành cho loạt phim nhiều tập chiếu trên TV cáp quang, được bầu chọn là hay nhất.
"**Only Girl (In the World)**" là một bài hát của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna nằm trong album phòng thu thứ năm _Loud_ (2010) của cô, được phát hành làm đĩa đơn chủ đạo
**Giải Sao Thổ cho nữ diễn viên phụ truyền hình xuất sắc nhất** là một trong các giải Sao Thổ dành cho nữ diễn viên đóng vai phụ trong một phim hoặc chương trình truyền
"**What's My Name?**" là một bài hát của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna hợp tác với nam rapper người Canada Drake nằm trong album phòng thu thứ năm _Loud_ (2010) của cô, được Def
"**Take a Bow**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Bardados Rihanna nằm trong phiên bản tái phát hành cho album phòng thu thứ ba của cô _Good Girl Gone Bad_ (2007)
**Robyn Rihanna Fenty** (; sinh ngày 20 tháng 2 năm 1988) là một nữ ca sĩ kiêm doanh nhân người Barbados. Sinh ra tại Saint James, Barbados và lớn lên tại Bridgetown, trong suốt năm
"**S&M**" là một bài hát của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna nằm trong album phòng thu thứ năm _Loud_ (2010) của cô, được phát hành làm đĩa đơn thứ tư của album vào ngày
**Vaitiare Hirshon-Asars** (sinh ra **Vaitiare Eugenia Hirshon**; ngày 15 tháng 8 năm 1964), trước đây gọi là **Vaitiare Bandera**, là một nữ diễn viên đến từ Hoa Kỳ. ## Sự nghiệp Vaitiare là người phát
**Joseph Jason Namakaeha Momoa** (sinh ngày 1 tháng 8 năm 1979) là nam diễn viên, đạo diễn và nhà sản xuất phim người Mỹ. Jason Momoa nổi tiếng với các vai diễn siêu anh hùng
"**Black and Yellow**" là bài hát của rapper người Mỹ Wiz Khalifa từ album phòng thu thứ ba của anh, _Rolling Papers_. Nó đã được phát hành làm đĩa đơn mở đầu cho album ngày
"**Kiss Kiss**" là bài hát pop được sáng tác bởi Juliette Jaimes, Sezen Aksu và Steve Welton-Jaimes. Bài hát này ban đầu là một bài hát Thổ Nhĩ Kỳ với tên là "Şımarık" trình bày
nhỏ|Biểu đồ mức phát triển của văn minh loài người theo thang Kardashev từ năm 1900 đến 2030, dựa theo dữ liệu của Báo cáo năng lượng toàn cầu từ [[Cơ quan năng lượng quốc
"**Diamonds**" là một bài hát được thu âm bởi nữ ca sĩ người Barbados Rihanna, và đồng thời cũng là đĩa đơn đầu tiên từ album phòng thu thứ bảy của cô, _Unapologetic_ (2012). Bài
**Giải Grammy lần thứ 54** được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 năm 2012 tại Trung tâm Staples, thành phố Los Angeles, California tại Mĩ. LL Cool J là người dẫn chương trình. Các
"**Right Now**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna, được trích từ album phòng thu thứ 7 của cô ấy, Unapologetic (2012). Bài hát có sự góp mặt của DJ
**Brian J. Smith** (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1981) là một diễn viên người Mỹ, được biết đến với vai Will Gorski trong series _Sense8_ do Netflix sản xuất, Trung úy Matthew Scott trong
thumb|Các bức ảnh tự cho là mô tả [[ma quỷ và các linh hồn đã từng phổ biến trong suốt thế kỷ XIX.]] **Siêu tâm lý học** (tiếng Anh: _parapsychology_) hay còn gọi là **cận
**Khu vực 51** là tên gọi chung của một cơ sở tối mật của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ (USAF) nằm trong Khu vực Huấn luyện và Thử nghiệm Nevada. Một biệt đội từ
"**Don't Stop the Music**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Rihanna, nằm trong album phòng thu thứ ba của cô, _Good Girl Gone Bad_ (2007). Nó được phát hành như
"**Firework**" (tạm dịch: "_Pháo hoa_") là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Katy Perry nằm trong album phòng thu thứ ba của cô, _Teenage Dream_ (2010). Nó được phát hành như
**Giải Grammy lần thứ 53** được tổ chức vào ngày 13 tháng 2 năm 2011 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, được truyền hình bởi kênh CBS. Barbra Streisand được vinh danh là nghệ
"**Rude Boy**" (tạm dịch: _Trai thô_) là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna, nằm trong album phòng thu thứ tư của cô, _Rated R_ (2009). Nó được phát hành như
**Midway** có thể chỉ: *Midway (hội chợ), một chỗ ở hội chợ hay gánh xiếc, nơi người ta tập trung vòng quay ngựa gỗ và các trò chơi giải trí. ## Rạn san hô vòng
"**Talk That Talk**" là một ca khúc của nữ ca sĩ thu âm người Barbados Rihanna trích từ album phòng thu cùng tên. Ca khúc có sự góp giọng của nam ca sĩ nhạc rap
"**Turn Around**" là một ca khúc của nam ca sĩ người Anh Conor Maynard hợp tác với nam ca sĩ/nhạc sĩ, nhà sản xuất người Mỹ Ne-Yo, có trong album phòng thu đầu tay của