Solor là một đảo núi lửa nằm ở rìa phía đông của đảo Flores trong quần đảo Solor thuộc nhóm các đảo được gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) của Indonesia. Trên đảo này có một lượng nhỏ cư dân sinh sống bằng nghề săn bắt cá voi trong hàng trăm năm qua. Họ nói các thứ tiếng như Adonara và Lamaholot. Có ít nhất 5 núi lửa trên hòn đảo nhỏ với kích thước chỉ dài 40 km (25 dặm) và rộng tối đa 6 km (4 dặm) này. Đảo có diện tích 222 km².
Lịch sử
nhỏ|Pháo đài của người Bồ Đào Nha tại Solor
Năm 1520, người Bồ Đào Nha đã lập ra một trạm thương mại tại làng Lamakera ở phía đông đảo Solor như là một cảng trung chuyển giữa Maluku và Malacca. Năm 1562, các thầy tu của dòng Dominic đã xây dựng một pháo đài bằng thân dừa mà những người Java theo Hồi giáo đã đốt cháy vào năm sau đó. Pháo đài này được xây dựng lại bằng các vật liệu bền hơn (đá) vào năm 1566, với 50 khẩu đại bác, và các thầy tu dòng Dominic đã mở đầu quá trình Kitô giáo hóa dân cư địa phương. Vào năm 1590, dân cư người Bồ Đào Nha và cư dân theo Kitô giáo đạt tới 25.000 người. Khi đó tại đây có ttowis 5 nhà thờ đã được xây dựng.
Trong thế kỷ 16, các hành trình thương mại phụ thuộc hoàn toàn vào mùa. Các thuyền buôn rời Goa ở tây nam Ấn Độ từ tháng 9 khi có gió mùa thổi theo hướng nam. Đi qua eo biển Malacca (Malaysia) với hàng hóa Ấn Độ trên thuyền, họ dừng lại Java để trao đổi lấy tiền đồng Trung Hoa. Sau đó họ đi tiếp về phía đông tới đảo Sumbawa để trao đổi lấy gạo và vải bông, để sau đó tới quần đảo Banda và đảo Ternate đổi lấy các loại gia vị. Một số trong số những thuyền buôn này còn đi tiếp tới Solor và Timor để thu mua gỗ đàn hương. Từ tháng 5 tới tháng 9 các thuyền buôn lại theo gió mùa tây-nam qua eo biển Malacca trở về. Từ năm 1582, trị giá hàng hóa xuất khẩu hàng hóa từ Solor qua Malacca đạt tới 3.000-4.000 cruzado (tiền cổ Bồ Đào Nha thế kỷ 16-17) mỗi năm.
Vào thời gian đó cũng xảy ra mâu thuẫn giữa các thương nhân với các thầy dòng, vì thế các thương nhân đã rời bỏ Solor và định cư tại Larantuka trên đảo Flores. Khi người Hà Lan tới đây vào năm 1613, các thầy tu đã nhanh chóng đầu hàng sau cuọc tấn công đầu tiên và cũng bị chuyển tới Larantuka.
Người Hà Lan chiếm giữ pháo đài, nhưng không thiết lập trạm thương mại gần với cảng của người Bồ Đào Nha. Sau khi 2 viên chỉ huy đào ngũ chạy sang phía người Bồ Đào Nha thì họ đã từ bỏ Solor. Năm 1636, bị người Hà Lan tấn công nên người Bồ Đào Nha đã từ bỏ pháo đài. Năm 1646 người Hà Lan lại chiếm pháo đài một lần nữa. Vị chỉ huy mới đầu tiên đã bị đình chỉ chức vụ do ông này cưới một phụ nữ bản xứ. Vị chỉ huy thứ hai thác đấu với vị chỉ huy người Bồ Đào Nha và bị giết chết. Năm 1648, người Hà Lan rời đảo và các thầy tu dòng Dominic quay trở lại.
Thị trấn và làng
Aplame
Balawelin
Kelike
Kukuwerang
Lamakera
Lamawolo
Lewograran
Liko
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Solor** là một đảo núi lửa nằm ở rìa phía đông của đảo Flores trong quần đảo Solor thuộc nhóm các đảo được gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) của
**Quần đảo Solor** () là một nhóm các đảo trong nhóm lớn hơn gọi là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) trong lãnh thổ của Indonesia, với giới hạn về phía tây là
**_Hexatoma solor_** là một loài ruồi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Tân bắc.
Bản đồ các đảo [[Đông Nusa Tenggara, bao gồm cả Lembata (viết là Lomblen trên bản đồ).]] **Lembata** là một đảo thuộc nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda
Bản đồ các đảo [[Đông Nusa Tenggara, bao gồm cả Lembata (viết là Adohara trên bản đồ).]] **Adonara** là một đảo trong nhóm các đảo gọi là quần đảo Nusa Tenggara của Indonesia, nằm ở
right|thumb|Xưởng đóng tàu của công ty Đông Ấn tại [[Amsterdam, Hà Lan.]] Cổ phiếu ngày 26/9/1606 của công ty Đông Ấn Hà Lan **Công ty Đông Ấn Hà Lan** ( hay **VOC**, có nghĩa là:
thumb|Bản đồ Indonesia. Đây là danh sách các hòn đảo của quần đảo Indonesia. Indonesia gồm 17.508 - 18.306 hòn đảo và 8.844 đảo trong số đó đã được đặt tên theo ước tính của
frame|phải|Bản đồ các đảo Đông Nusa Tenggara, bao gồm cả đảo Pantar. **Pantar** (tiếng Indonesia: _Pulau Pantar_) là đảo lớn thứ hai trong nhóm đảo gọi là quần đảo Alor thuộc Indonesia, chỉ sau đảo
phải|Đảo lớn nhất (Alor) trong quần đảo Alor có màu đỏ trên bản đồ này. **Quần đảo Alor** là một nhóm các đảo nằm ở rìa phía đông của quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo
**Eo biển Alor** (còn gọi là Alloo ), là một eo biển chia tách quần đảo Solor ra khỏi quần đảo Alor trong nhóm các đảo thuộc Quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ)
nhỏ|242x242px|Sự hình thành của Majapahit cho đến khi tan rã năm 1527 **Majapahit** (tiếng Indonesia: Majapahit, âm "h" trong tiếng Java là âm câm) là một vương quốc theo đạo Hindu và đạo Phật Đại
**Bướm cánh chuồn** (**_Leptosia nina_**) là một loài bướm nhỏ thuộc họ Pieridae được tìm thấy ở Đông Nam Á, tiểu lục địa Ấn Độ và Australia. ## Mô tả Cánh trước trên có một
**Grue** là một đô thị hạt Hedmark, Na Uy. Nó là một phần của khu vực truyền thống Solor. Trung tâm hành chính của đô thị này là làng Kirkenær (dân số: 1200 người). Đô
**Åsnes** là một đô thị hạt Hedmark, Na Uy. Nó là một phần của khu vực truyền thống của Solor. Trung tâm hành chính của đô thị này là làng Flisa, cũng là thị trấn
**Eo biển Alas** chia tách Lombok và Sumbawa, hai hòn đảo của Indonesia thuộc tỉnh Tây Nusa Tenggara. Eo biển vốn là một cầu đất liền cho đến 14.000 năm trước khi mực nước biển
**Đông Timor** là một quốc gia nằm trên đảo Timor. Tổng diện tích quốc gia là khoảng 15.007 km². ## Vị trí Quốc gia này nằm ở Đông nam Á, phía tây bắc của Úc, trong
**_Cirrhilabrus solorensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Cirrhilabrus_ trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853. ## Từ nguyên Từ định danh _solorensis_ được đặt
**_Halichoeres solorensis_** là một loài cá biển thuộc chi _Halichoeres_ trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853. ## Từ nguyên Từ định danh _solorensis_ được đặt
**_Scorpaenodes muciparus_** là một loài cá biển thuộc chi _Scorpaenodes_ trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1889. ## Từ nguyên Từ định danh _muciparus_ được ghép
** Timor thuộc Bồ Đào Nha ** là tên của Đông Timor khi lãnh thổ này bị Bồ Đào Nha chiếm đóng. Trong hầu hết thời gian này, Bồ Đào Nha chia đôi đảo Timor
**Willem Janszoon** (; ), đôi khi được viết tắt là **Willem Jansz.**, là một hoa tiêu và thống đốc thuộc địa của Hà Lan. Janszoon phục vụ ở Đông Ấn Hà Lan trong các giai
**_Ostracion solorense_** là một loài cá biển thuộc chi _Ostracion_ trong họ Cá nóc hòm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853. ## Từ nguyên Từ định danh _solorensis_ được đặt