✨Siganus luridus
Siganus luridus là một loài cá biển thuộc chi Cá dìa trong họ Cá dìa. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829.
Từ nguyên
Từ luridus trong danh pháp của loài cá này theo tiếng Latinh có nghĩa là "màu vàng nhạt", ám chỉ màu sắc cơ thể của chúng.
Phạm vi phân bố và môi trường sống
S. luridus có phạm vi phân bố ở vùng biển Tây Ấn Độ Dương và Đông Địa Trung Hải. Loài cá này xuất hiện ở khắp các vùng biển tiếp giáp với bán đảo Ả Rập; và từ Biển Đỏ, S. luridus có mặt dọc theo vùng bờ biển Đông Phi, bao gồm Madagascar và các đảo quốc lân cận.
Băng qua kênh đào Suez, S. luridus đã du nhập vào Địa Trung Hải và được ghi nhận lần đầu tiên ở ngoài khơi Israel vào năm 1956. Kể từ khi du nhập, S. luridus đã hình thành những quần thể lớn ở Đông Địa Trung Hải, và dần mở rộng phạm vi về phía tây đến tận thành phố Marseille (Pháp) ở bờ bắc và đông bắc Tunisia ở bờ nam; về phía bắc đến biển Adriatic. Cơ thể của chúng có màu nâu lục hoặc vàng nâu, thường có các đường vân màu trắng; vây ngực màu vàng.
Số gai ở vây lưng: 13 - 14; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 7; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.
Tuy là cá độc nhưng S. luridus vẫn được xem là một loại cá thực phẩm. Vào năm 2008, các nhà nghiên cứu nhận thấy, nhiều khu vực rộng lớn ở ven bờ Địa Trung Hải của Thổ Nhĩ Kỳ hầu như không có tảo mọc, nơi mà nhím biển hiếm được tìm thấy.
Các loài tảo đáy lại có khá nhiều ở những địa điểm khác chỉ cách xa nơi khảo sát vài km nên giả thiết nồng độ dinh dưỡng trong nước biển thấp được loại bỏ. Để kiểm tra xem có phải các loài cá ăn rong tảo là nguyên nhân gây ra hiện tượng xói mòn trên, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thí nghiệm quan sát các loài cá ở bờ biển Địa Trung Hải của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả cho thấy, cả hai loài cá dìa S. luridus và Siganus rivulatus chiếm từ 83% đến 95% tổng số các loài cá ăn thực vật được quan sát tại các điểm nghiên cứu. Cả hai loài cá này là nguyên nhân chính cho việc suy giảm sinh khối tảo xuống mức cực thấp ở vùng bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngoài ra, Sparisoma cretense là loài cá ăn thực vật duy nhất được nhìn thấy tại các địa điểm trên, nhưng chúng chỉ chiếm từ 5% đến 17% tổng số các loài cá ăn thực vật đã được quan sát. Loài cá ăn thực vật bản địa của Địa Trung Hải là Sarpa salpa và nhím biển không được nhìn thấy trong lần khảo sát này.