✨Serichonus gracilipes

Serichonus gracilipes

Serichonus gracilipes là một loài thực vật có hoa trong họ Táo.

Lịch sử phân loại

Năm 1904 Friedrich Ludwig Emil Diels mô tả khoa học đầu tiên loài với danh pháp Stenanthemum gracilipes. Tuy nhiên, các tác giả khác, như Ronse Decraene et al. (1993), Medan & Schirarend (2004) phản đối điều này, tin rằng các mầm nguyên sinh cánh hoa và nhị hoa riêng biệt trở thành hợp nhất thứ cấp. Các nghiên cứu về hình thái học của Serichonus và các loài khác thuộc tông Pomaderreae có thể giúp giải quyết các cách thức phát triển dẫn đến hoa với cánh hoa và nhị hoa mọc liền kề nhau ở họ Rhamnaceae.

Mẫu định danh

Bộ sưu tập ban đầu của Diels từ chuyến đi của ông ở Tây Úc (1904-1906), bao gồm cả mẫu holotype của Stenanthemum gracilipes, được lưu giữ tại phòng mẫu cây của Vườn Thực vật và Bảo tàng Thực vật Berlin, cơ sở trung tâm của Đại học Tự do Berlin (B) tại Berlin, nhưng phần lớn trong số đó đã bị phá hủy vào cuối Thế chiến thứ hai. Việc tìm kiếm mẫu định danh gốc tại đây đã không thành công. Tuy nhiên, một bộ phận của mẫu định danh gốc lưu giữ tại Phòng mẫu cây Tây Úc (PERTH) tại Kensington, Tây Úc, do Charles Austin Gardner kiếm được từ phòng mẫu cây của Vườn Thực vật và Bảo tàng Thực vật Berlin trong thập niên 1930 vẫn còn và nó được chỉ định là lectotype thay cho holotype đã thất lạc.

  • Holotype: D. 4183. Thu thập tại Wokatharra Hills, gần vịnh Champion, Tây Úc ngày 9 tháng 9 năm 1901. Hiện đã thất lạc.
  • Lectotype: L. Diels 4183 (số lưu giữ tại PERTH: PERTH 1008188).

Từ nguyên

Tính từ định danh gracilis trong tiếng Latinh nghĩa là mảnh mai, thanh mảnh; dùng để chỉ các cụm hoa lỏng lẻo của loài này.

Phân bố

Loài đặc hữu tỉnh thực vật tây nam Tây Úc, kéo dài từ Nabawa về phía nam đến Wokatharra Hill. Có trong các môi trường sống trên đá, thường là đá ong trên nền đá granit, nhưng cũng được ghi nhận từ sa thạch. Một ghi chép là từ các khe đá ở rìa của phần đỉnh bằng của núi cô lập nền đá ong với sự chi phối của Hibbertia (họ Dilleniaceae) và những cây bụi bị gió xén tỉa khác và kéo dài xuống phần trên cùng của sườn dốc. Các ghi nhận trước đó bao gồm các sườn đáy của các núi cô lập, các mỏm hay các bảng đá granit cùng với Thryptomene (họ Myrtaceae), và các hào rãnh đá, đôi khi bên cạnh các tảng đá granit.

Mô tả loài

Cây bụi cao 0,2–0,7 m, với các thân bò lan đôi khi phân lớp, không gai, các lá chủ yếu ở phần xa. Các thân non ban đầu có một lớp lông tơ rậm, gồm các lông đơn dài và các lông hình sao nhỏ hơn, đôi khi trở thành nhẵn nhụi; các lông đơn chủ yếu là cong hướng lên, dài nhất tới 0,7–1,5 mm. Các lá kèm hình tam giác rộng, dài 3–5,5 mm, rời hoặc hợp sinh ở sát đáy giữa cuống lá và thân cây, thon nhỏ dần, có răng cưa, có lông dọc theo gân giữa và mép. Cuống lá dài 2–4 mm, rậm lông. Phiến lá ban đầu gập đôi, hình trứng ngược, dài 12–20 mm, rộng 7–12 mm; đáy hình nêm, đỉnh khía răng cưa và nhọn đột ngột, hơi uốn ngược; mặt dưới rậm lông với các lông đơn dài phủ lên trên các lông hình sao nhỏ hơn; mặt trên với lớp lông gồm các lông đơn từ thưa đến khá dày. Cụm hoa là các xim hoa rời, mỗi xim ở đầu một cành con và thường gồm 3–6(–10) hoa; các lá bắc ngoài đơn độc, bền, mỗi lá đỡ một nhóm các cuống hoa, hình trứng hoặc hình trứng rộng, dài 1,5–2,5 mm, có răng cưa, có lông rung, hơi có lông ở mặt ngoài, các lông đơn và áp ép; các lá bắc ở đáy các cuống hoa nhỏ, dài 0,2–0,8 mm. Hoa màu trắng, trở thành đỏ hoặc hồng ở quả, cuống hoa thường dài 3–6 mm (ở quả phình dài đến 7–12 mm). Ống hoa dài 1,5–2 mm (phình dài đến ~3 mm ở quả), đường kính 1,5–2,3 mm, hình phễu, mặt trong nhẵn nhụi; đáy chén hoa với một lớp lông đơn rậm hoặc rất rậm gồm các lông đơn cong hướng lên và các lông hình sao nhỏ hơn nhiều, lông lớn nhất dài ~1 mm; ống hoa dài hơn nhiều so với phần đáy và ít lông hơn, đôi khi chủ yếu là nhẵn nhụi với các lông chỉ giới hạn ở 5 gân dọc. Lá đài dài 1,5–2 mm, có lông từ vừa phải đến rậm. Cánh hoa dài 1–1,2 mm (không kể phần đáy hợp sinh), màu trắng với các đốm màu hồng sẫm ở phần trên; vuốt hợp sinh với đáy chỉ nhị 0,2–0,3 mm. Nhị hoa dài 0,8–1,1 mm (không kể phần đáy hợp sinh), bao phấn dài 0,25–0,3 mm. Đĩa nhẵn bóng, màu vàng. Đỉnh bầu nhụy với lớp lông rậm gồm các lông dài mọc thẳng đứng và lộn xộn. Vòi nhụy dài 1,6–2,5 mm, có nhú dài ~0,02 mm; đầu nhụy 3 thùy nhỏ. Quả chủ yếu là hạ tới nửa hạ, dài 2,3–3 mm, màu nâu ánh đỏ. Hạt nén ép, hình elip, dài 2,3–2,4 mm, thân dài ~1,9 mm và rộng ~1,1 mm, sẫm màu ở đáy, màu nâu da cam đồng nhất ở phần trên; áo hạt trong suốt-trong mờ, dài ~0,7 mm, 3 thùy ngắn. Ra hoa và tạo quả tháng 8-9.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Serichonus gracilipes_** là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. ## Lịch sử phân loại Năm 1904 Friedrich Ludwig Emil Diels mô tả khoa học đầu tiên loài với danh pháp _Stenanthemum gracilipes_.