✨Rối loạn lưỡng cực
Rối loạn lưỡng cực (tiếng Anh: bipolar disorder), từng được gọi là bệnh hưng trầm cảm (tiếng Anh: manic depression), là một bệnh tâm thần có đặc trưng là các giai đoạn trầm cảm đi kèm với các giai đoạn tâm trạng hưng phấn ở mức bất thường kéo dài từ nhiều ngày đến nhiều tuần.
Nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nghiêm trọng hoặc có liên hệ với loạn thần thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm; nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nhẹ hơn thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm nhẹ. Các vấn đề khác về sức khỏe tâm thần, chẳng hạn như rối loạn lo âu hay rối loạn sử dụng chất gây nghiện, thường được liên hệ với rối loạn lưỡng cực. Các yếu tố di truyền quyết định 70–90% nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực. Các chứng bệnh khác có những triệu chứng trùng lặp với rối loạn lưỡng cực bao gồm rối loạn tăng động giảm chú ý, rối loạn nhân cách, tâm thần phân liệt và rối loạn sử dụng chất gây nghiện, cũng như nhiều bệnh khác.
Thuốc ổn định tâm trạng—lithium và một số thuốc chống co giật như valproate và carbamazepine—là cách phòng ngừa tái phát bệnh chủ yếu. Việc sử dụng thuốc chống trầm cảm trong các pha trầm cảm gặp phải tranh cãi—chúng có thể mang lại hiệu quả nhưng đã cho thấy là sẽ kích thích các pha hưng cảm. Việc điều trị các pha trầm cảm thường khó khăn. Liệu pháp sốc điện có hiệu quả trong các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm nghiêm trọng, đặc biệt là với tình trạng loạn tâm thần hoặc căng trương lực. Các triệu chứng thường xuất hiện từ độ tuổi 20; thời điểm khởi phát càng sớm thì tiên lượng càng xấu. Do lối sống và tác dụng phụ của thuốc, người mắc rối loạn lưỡng cực có nguy cơ tử vong vì những nguyên nhân tự nhiên như bệnh động mạch vành cao gấp đôi so với dân số nói chung. Bệnh có đặc trưng là những giai đoạn hưng cảm và trầm cảm ngắt quãng, và không có triệu chứng gì ở giữa hai giai đoạn. Các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng và ảo giác có thể xuất hiện trong cả pha hưng cảm và pha trầm cảm, và tính chất của chúng tương đồng với tâm trạng chính mà người bệnh đang trải qua.
Pha hưng cảm
thumb|upright|left|In thạch bản màu năm 1892 miêu tả một người phụ nữ được chẩn đoán là mắc hưng cảm vui sướng Hưng cảm là một giai đoạn kéo dài ít nhất một tuần có đặc trưng là tâm trạng hưng phấn hoặc cáu bẳn. Triệu chứng cốt lõi của hưng cảm là sự kích động tâm lý. Hưng cảm cũng có thể được thể hiện qua sự tự tin hoặc kiêu ngạo thái quá, suy nghĩ dồn dập, nói liên hồi khiến người khác không thể xen vào, nhu cầu ngủ thấp, hành vi xã hội không có sự kiềm chế Để được xem là một pha hưng cảm, các hành vi này phải làm suy giảm khả năng giao tiếp hoặc làm việc của người bệnh.
Trong các pha hưng cảm nghiêm trọng, người bệnh có thể trải qua các triệu chứng loạn tâm thần, trong đó không chỉ tâm trạng mà suy nghĩ của họ cũng bị ảnh hưởng. Điều này có thể dẫn đến những hành vi bạo lực và đôi khi người bệnh cần phải được điều trị nội trú ở một bệnh viện tâm thần.
Sự khởi phát của pha hưng cảm có thể được báo trước qua những rối loạn trong giấc ngủ. Sự thay đổi tâm trạng, kích động tâm lý và thay đổi khẩu vị cũng có thể xảy ra tối đa ba tuần trước khi một pha hưng cảm bắt đầu. Nhiều người bệnh thường có tiền sử lạm dụng chất gây nghiện kéo dài nhiều năm do tự "kê đơn" thuốc cho mình. trong khi những người khác trở nên cáu bẳn và thể hiện khả năng phán đoán kém.
Hưng cảm nhẹ có thể mang lại cảm giác tích cực cho một số người bệnh, tuy nhiên phần lớn những người trải qua pha hưng cảm nhẹ cho biết sự căng thẳng mà nó gây ra khiến họ thấy rất khổ sở. Nếu không đi kèm với pha trầm cảm, các pha hưng cảm nhẹ thường không được xem là vấn đề nghiêm trọng, trừ khi tâm trạng của người bệnh thay đổi một cách không thể kiểm soát hoặc quá bất ổn. Trong hầu hết trường hợp, các triệu chứng kéo dài từ vài tuần đến vài tháng.
Pha trầm cảm
thumb|upright|left|'Melancholy' của [[William Bagg, vẽ theo một bức ảnh được chụp bởi Hugh Welch Diamond]] Triệu chứng của pha trầm cảm ở người mắc rối loạn lưỡng cực bao gồm cảm thấy buồn bã, cáu bẳn hoặc giận dữ kéo dài, mất hứng thú với những điều mà bình thường họ yêu thích, cảm thấy tội lỗi thái quá hoặc vô lý, cảm thấy tuyệt vọng, ngủ quá nhiều hoặc không đủ, thay đổi khẩu vị và/hoặc cân nặng, mệt mỏi, khó tập trung, căm ghét bản thân hoặc cảm thấy mình không có giá trị, và suy nghĩ về cái chết hoặc tự sát. Ở phần lớn người bệnh rối loạn lưỡng cực loại I và II, các pha trầm cảm kéo dài hơn nhiều so với các pha hưng cảm hay hưng cảm nhẹ.
Pha cảm xúc hỗn hợp
Ở rối loạn lưỡng cực, trạng thái hỗn hợp là một pha có những triệu chứng của cả hưng cảm và trầm cảm. Người bệnh đang trải qua trạng thái hỗn hợp có thể gặp các triệu chứng hưng cảm như, đồng thời gặp các triệu chứng trầm cảm như cảm giác tội lỗi thái quá hay ý nghĩ tự sát. Việc phân tích theo chiều dọc một cách tỉ mỉ các triệu chứng và pha của người bệnh, cũng như thảo luận với bạn bè và người thân của họ nếu có thể, là hết sức cần thiết trong việc thiết lập phác đồ điều trị cho những người bệnh rối loạn lưỡng cực mắc các bệnh lý đồng diễn này. Những người có bố mẹ mắc rối loạn lưỡng cực có tần suất mắc các bệnh tâm lý khác cao hơn.
Người bệnh rối loạn lưỡng cực thường đồng thời mắc các chứng bệnh tâm lý khác như lo âu (xuất hiện ở 71% người bệnh), lạm dụng chất gây nghiện (56%), rối loạn nhân cách (36%) và rối loạn tăng động giảm chú ý (10–20%), điều này có thể làm tăng gánh nặng bệnh tật và khiến tiên lượng trở nên xấu đi. Người mắc rối loạn lưỡng cực cũng thường có nguy cơ gặp một số chứng bệnh khác cao hơn so với dân số nói chung, trong đó có hội chứng chuyển hóa (xuất hiện ở 37% người bệnh), đau nửa đầu (35%), béo phì (21%) và tiểu đường loại 2 (14%).
Kiểm soát
Mục tiêu của việc kiểm soát rối loạn lưỡng cực là điều trị các pha hưng cảm và trầm cảm cấp tính một cách an toàn bằng thuốc, cũng như phối hợp với người bệnh về lâu dài nhằm ngăn ngừa bệnh tái phát và tăng cường chức năng bằng cách kết hợp các kỹ thuật dược lý và tâm lý trị liệu.
Liệu pháp tâm lý xã hội
Việc trị liệu tâm lý có mục đích là hỗ trợ người mắc rối loạn lưỡng cực chấp nhận và hiểu được tình trạng của mình, đối phó với những loại căng thẳng khác nhau, cải thiện các mối quan hệ với người khác, cũng như nhận biết các triệu chứng sớm trước khi bệnh tái phát hoàn toàn. Một số bác sĩ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trò chuyện với những người bệnh đang trải qua pha hưng cảm để xây dựng một mối quan hệ chữa trị nhằm hỗ trợ quá trình hồi phục.
Thuốc
thumb|Lithium thường được sự dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực và đã cho thấy là mang lại hiểu quả cao nhất trong việc ngăn ngừa tự sát. Đơn thuốc có thể sẽ khác nhau tùy thuộc vào việc chữa trị pha nào. Lithium làm giảm nguy cơ tự sát, tự hại và tử vong ở các bệnh nhân rối loạn lưỡng cực. Khi được sử dụng cùng nhau, thuốc chống loạn thần và thuốc ổn định tâm trạng có tác dụng nhanh và hiệu quả hơn trong việc điều trị pha hưng cảm so với khi chỉ một trong hai được sử dụng. Một số phân tích cho thấy chỉ sử dụng thuốc chống loạn thần cũng có hiệu quả cao hơn trong việc điều trị pha hưng cảm cấp tính.
Thuốc ổn định tâm trạng
Lithium và các thuốc chống co giật bao gồm carbamazepine, lamotrigine và axit valproic được xếp loại là thuốc ổn định tâm trạng vì tác động của chúng với tâm trạng của người mắc rối loạn lưỡng cực. mặc dù nó làm giảm chức năng của thận và tuyến giáp khi được dùng trong thời gian dài. Carbamazepine không hiệu quả bằng lithium hay valproate trong việc ngăn ngừa bệnh tái phát. Lamotrigine tương đối hiệu quả trong việc điều trị trầm cảm, đặc biệt là trầm cảm nặng. Nó cũng đã cho thấy là có lợi cho việc ngăn ngừa rối loạn lưỡng cực tái phát, mặc dù có một số lo ngại xung quanh những nghiên cứu về việc này, và nó không có tác dụng gì đối với rối loạn lưỡng cực chu kỳ nhanh. Valproate và carbamazepine có thể gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi và không nên được sử dụng bởi phụ nữ ở độ tuổi sinh con, tuy nhiên việc ngưng dùng các thuốc này khi mang thai có liên hệ với nguy cơ tái phát cao.
Thuốc chống loạn thần
Thuốc chống loạn thần có tác dụng trong điều trị tạm thời các pha hưng cảm, và tỏ ra có hiệu quả hơn lithium và thuốc chống co giật trong việc này. Một nghiên cứu năm 2006 cho thấy haloperidol có tác dụng trong việc điều trị các pha hưng cảm cấp tính, không có khác biệt gì giữa hiệu quả của haloperidol, olanzapine và risperidone, và haloperidol có thể kém hiệu quả hơn aripiprazole. Carbamazepine có tác dụng trong việc điều trị các pha hưng cảm, và một số bằng chứng cho thấy nó đặc biệt hiệu quả đối với rối loạn lưỡng cực chu kỳ nhanh, hoặc những người bệnh có triệu chứng loạn thần hay những triệu chứng tương tự như ở rối loạn phân liệt cảm xúc.
Thuốc chống trầm cảm
Việc chỉ sử dụng thuốc chống trầm cảm trong điều trị rối loạn lưỡng cực không được khuyến khích, và chúng không cho thấy là mang lại lợi ích nào hơn thuốc ổn định tâm trạng. Thuốc chống loạn thần không điển hình (ví dụ như aripiprazole) được khuyên dùng hơn so với thuốc chống trầm cảm trong việc tăng cường tác dụng của thuốc ổn định tâm trạng do sự kém hiệu quả của thuốc chống trầm cảm đối với rối loạn lưỡng cực. Liệu pháp sốc điện (ECT) là một cách hiệu quả để chữa trị các rối loạn tâm trạng cấp tính, đặc biệt là khi người bệnh có biểu hiện loạn tâm thần hoặc căng trương lực. ECT cũng được khuyên dùng ở những phụ nữ có thai mắc rối loạn lưỡng cực. Đáng tiếc là các tài liệu và nghiên cứu về tác dụng của liệu pháp tâm lý xã hội đối với các bệnh rối loạn lưỡng cực còn ít, khiến việc xác định tính hiệu quả của nhiều liệu pháp gặp khó khăn. Các phương pháp tâm lý trị liệu thường bao gồm giáo dục về căn bệnh, trị liệu nhóm và liệu pháp hành vi nhận thức. Nó được xem là một vấn đề y tế lớn của toàn thế giới do tỷ lệ tật nguyền và tử vong cao mà nó gây ra.
Uống thuốc đầy đủ là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc làm giảm nguy cơ tái phát và mức độ nghiêm trọng của các lần tái phát, đồng thời có tác động tích cực đến tiên lượng nói chung. Trong số các thể rối loạn lưỡng cực, rối loạn lưỡng cực chu kỳ nhanh (bốn pha trở lên trong vòng một năm) có tiên lượng xấu nhất do nguy cơ tự hại và tự sát cao.
Việc nhận biết và can thiệp sớm cũng có thể cải thiện tiên lượng bởi trong giai đoạn đầu, các triệu chứng ít nghiêm trọng và tiếp nhận điều trị tốt hơn.
Chức năng
Những thay đổi trong các quá trình nhận thức và khả năng nhận thức là một biểu hiện của các bệnh rối loạn tâm trạng. Các triệu chứng này nghiêm trọng hơn ở rối loạn lưỡng cực so với rối loạn trầm cảm chính. Chúng bao gồm sự suy giảm trong khả năng chú ý, chức năng điều hành của não bộ và trí nhớ. Người mắc rối loạn lưỡng cực thường gặp phải sự suy giảm chức năng nhận thức trong khi (hoặc cũng có thể là trước khi) trải qua pha đầu tiên của mình. Sau đó, người bệnh thường bị suy giảm nhận thức vĩnh viễn ở một mức độ nào đó. Khả năng nhận thức suy giảm nghiêm trọng hơn khi người bệnh đang trải qua các pha cấp tính, và suy giảm ở mức nhẹ trong các giai đoạn bệnh thuyên giảm. Do đó, hai phần ba số người mắc rối loạn lưỡng cực tiếp tục bị suy giảm chức năng tâm lý xã hội trong khoảng thời gian giữa các pha, thậm chí là ngay cả khi các triệu chứng đã thuyên giảm hoàn toàn. Điều này xảy ra ở cả rối loạn lưỡng cực I và II, nhưng người mắc rối loạn lưỡng cực II suy giảm nhận thức ít hơn. Khi xảy ra ở trẻ em, rối loạn lưỡng cực ảnh hưởng tiêu cực một cách nghiêm trọng đến sự phát triển tâm lý xã hội của bệnh nhi. Việc can thiệp sớm có thể làm chậm tốc độ suy giảm nhận thức, còn việc điều trị ở các giai đoạn sau này có thể giúp làm giảm những khó chịu và hậu quả liên quan đến tình trạng suy giảm nhận thức. Các triệu chứng trầm cảm ở trong và giữa các pha xuất hiện nhiều hơn các triệu chứng hưng cảm và hưng cảm nhẹ ở phần lớn người bệnh, và có liên hệ với việc khó hồi phục về chức năng hơn, trong đó có tình trạng thất nghiệp hoặc làm công việc dưới trình độ. Điều này xảy ra ở cả rối loạn lưỡng cực I và II.
Hồi phục và tái phát
Một nghiên cứu được thực hiện trên những người mắc rối loạn lưỡng cực có pha đầu tiên mình trải qua là một pha hưng cảm hoặc cảm xúc hỗn hợp từ khi họ nhập viện lần đầu tiên cho thấy 50% trường hợp đã hồi phục một phần về mặt triệu chứng (nghĩa là không còn đạt các tiêu chí chẩn đoán) trong vòng sáu tuần, và 98% trường hợp đạt được điều đó trong vòng hai năm. Trong vòng hai năm, 72% trường hợp đã hồi phục hoàn toàn về mặt triệu chứng (nghĩa là không gặp phải triệu chứng nào), và 43% trường hợp đã hổi phục về mặt chức năng (nghĩa là khôi phục được công việc và chỗ ở trước đây). Tuy nhiên, 40% trường hợp sau đó đã trải qua một pha hưng cảm hoặc trầm cảm mới trong vòng hai năm kể từ khi hồi phục một phần về mặt triệu chứng, và 19% trường hợp đã chuyển sang một pha khác mà không có sự hồi phục nào.
Người mắc rối loạn lưỡng cực có thể cảm nhận được một số triệu chứng sớm báo hiệu bệnh sắp tái phát. Đã có nhiều nỗ lực hướng dẫn người bệnh cách đối phó khi nhận thấy các triệu chứng như vậy và chúng mang lại kết quả khả quan.
Tự sát
Rối loạn lưỡng cực có thể gây ra ý nghĩ tự sát, từ đó dẫn đến các nỗ lực tự sát. Nếu pha đầu tiên mà người bệnh trải qua là một pha trầm cảm hoặc cảm xúc hỗn hợp thì có vẻ như họ sẽ có tiên lượng xấu hơn và nguy cơ tự sát cao hơn. Cứ hai người mắc rối loạn lưỡng cực thì có một người cố gắng tự sát ít nhất một lần trong đời và nhiều nỗ lực đã được thực hiện thành công. Nguy cơ tự sát ít nhất một lần trong đời ở người bệnh rối loạn lưỡng cực có thể lên đến 20%.
Các yếu tố làm gia tăng nguy cơ tự sát ở những người mắc rối loạn lưỡng cực bao gồm tuổi cao, tiền sử cố gắng tự sát, có pha đầu tiên mình trải qua là pha trầm cảm hoặc cảm xúc hỗn hợp, sự xuất hiện các triệu chứng loạn thần khi đang trải qua các pha hưng cảm, cảm giác tuyệt vọng hoặc sự kích động tâm lý trong các pha, rối loạn lo âu đồng diễn, là người thân trực tiếp của một người mắc rối loạn tâm trạng, xung đột trong các mối quan hệ với người khác, vấn đề trong công việc, người thân qua đời hoặc bị cô lập với xã hội.