thumbnail|Đại tướng [[Hans von Seeckt, Lãnh đạo Reichswehr cùng với bộ binh trong một cuộc diễn tập của Reichswehr ở Thuringia, 1926]]
thumb|Màu [[ngụy trang dành cho lều trại của quân Đức, được giới thiệu vào năm 1931.]]
thumbnail|Binh sĩ Reichswehr trong một cuộc tập trận quân sự, tháng 9 năm 1930
Reichswehr (), tạo thành tổ chức quân sự của Đức từ năm 1919 đến năm 1935, khi tổ chức được hợp nhất với Wehrmacht mới được thành lập ("Lực lượng Phòng vệ").
Vào cuối Thế chiến I, quân đội của Đế quốc Đức đã gần như tan rã, binh sĩ tự tìm đường về nhà lẻ tẻ hoặc hình thành các nhóm nhỏ. Nhiều người trong số họ tham gia vào Freikorps ("Quân đoàn tự do"), một tập hợp các đơn vị bán quân sự tình nguyện đã tham gia vào cuộc cách mạng và các cuộc đụng độ biên giới từ năm 1918 đến năm 1923.
Thừa nhận rằng Cộng hòa Weimar mới được thành lập cần thiết phải có một quân đội riêng, do vậy vào ngày 6 tháng 3 năm 1919, chính phủ ra sắc lệnh thành lập Vorläufige Reichswehr ("Bộ Quốc phòng Lâm thời"), bao gồm Vorläufige Reichsheer ("Lục quân Quốc gia Lâm thời") và Vorläufige Reichsmarine ("Hải quân Quốc gia Lâm thời"). Ngày 30 tháng 9 năm 1919, quân đội được tổ chức lại thành Übergangsheer ("Lục quân Chuyển tiếp"). Khoảng 400.000 quân nhân đã phục vụ trong lực lượng vũ trang. Tình trạng này kéo dài cho đến ngày 1 tháng 1 năm 1921, khi Reichswehr đã chính thức được thành lập dựa theo những hạn chế bị áp đặt bởi Hiệp ước Versailles (Điều 159-213).
Reichswehr là một tổ chức thống nhất bao gồm những thành phần sau đây (như Hiệp ước Versailles cho phép):
Reichsheer, lục quân gồm hai nhóm quân:
bảy sư đoàn bộ binh, và
ba sư đoàn kỵ binh.
Reichsmarine, lực lượng hải quân với một số lượng hạn chế chủng loại tàu thuyền. Riêng tàu ngầm thì bị cấm.
Reichswehr bị giới hạn quân số với quân đội thường trực gồm 100.000 người và 15.000 trong lực lượng hải quân. Việc thành lập bộ Tổng tham mưu bị cấm. Các loại vũ khí hạng nặng như pháo binh trên 105 mm (đối với pháo hải quân, trên 205 mm), xe bọc thép, tàu ngầm và tàu chiến chủ lực cũng như bất kỳ loại máy bay nào đều bị cấm. Việc tuân theo những hạn chế này do đích thân Ủy ban kiểm soát Quân sự Liên Đồng Minh giám sát cho đến năm 1927.
Mặc dù có những hạn chế về quân số, những phân tích của họ về sự thua cuộc trong Thế chiến I, nghiên cứu và phát triển, thử nghiệm bí mật ở nước ngoài (hợp tác với Hồng Quân) và lập kế hoạch cho "những lần tốt hơn" đều được thực hiện. Ngoài ra, mặc dù bị cấm lập bộ Tổng tham mưu, quân đội tiếp tục thực hiện các chức năng điển hình của bộ Tổng tham mưu dưới cái tên trá hình Truppenamt ("Phòng Quân chủng"). Suốt thời gian này, nhiều người trong số các nhà lãnh đạo tương lai của Wehrmacht — như Heinz Guderian — lần đầu tiên xây dựng nên những ý tưởng mà họ đã sử dụng rất có hiệu quả một vài năm sau đó.
Quân đội từ chối công nhận tính hợp pháp của nền cộng hòa dân chủ Weimar và thay vào đó Reichswehr dưới sự lãnh đạo của Hans von Seeckt đã trở thành một "nhà nước trong nhà nước" mà chủ yếu hoạt động nằm ngoài sự kiểm soát của các chính trị gia. Để phản ánh vị trí này như là một "nhà nước trong nhà nước", Reichswehr đã lập ra Ministeramt hay Văn phòng Bộ trưởng Nội vụ vào năm 1928 dưới quyền Kurt von Schleicher để vận động hành lang giới chính trị gia. Nhà sử học Đức Eberhard Kolb đã viết rằng:
"...từ giữa những năm 1920 trở đi, giới lãnh đạo quân đội đã phát triển và truyền bá những quan niệm xã hội mới của một loại hình quân phiệt, nhằm tạo ra một sự hợp nhất khu vực quân sự và dân sự và cuối cùng là một nhà nước độc tài quân sự (Wehrstaat)".
Ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển của Reichswehr là Hans von Seeckt (1866-1936), từ năm 1920-1926 giữ cương vị
Chef der Heeresleitung (nghĩa là "Tổng tư lệnh Quân đội").
Trong khi việc giảm sức mạnh thời bình của quân đội Đức từ 780.000 (năm 1913) xuống còn 100.000 người đã thực sự nâng cao chất lượng của Reichsheer (chỉ những người tốt nhất mới được phép tham gia quân đội) làm thay đổi bộ mặt của chiến tranh có nghĩa là đội quân nhỏ bé phần lớn sẽ bất lực nếu không được cơ giới hóa và sự yểm trợ từ không quân, chẳng gặp mấy trở ngại trong nỗ lực hiện đại hóa chiến thuật bộ binh của quân Đức.
Vào năm 1933 và 1934 sau khi Adolf Hitler trở thành Thủ tướng Đức, Reichswehr bắt đầu một chương trình mở rộng bí mật. Sau khi Đức Quốc xã lên nắm quyền, mà Sturmabteilung ("Sư đoàn Bão táp"; SA), lực lượng dân quân Đức Quốc xã đã đóng một vai trò nổi bật, Ernst Rohm và các đồng nghiệp SA của ông suy nghĩ về lực lượng của họ (giờ quân số đã hơn ba triệu) như là tương lai quân đội của Đức nhằm thay thế Reichswehr và giới sĩ quan chuyên nghiệp mà họ coi là "những gã cổ hủ" thiếu hẳn "tinh thần cách mạng".
Rohm muốn ngồi vào ghế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Vào tháng 2 năm 1934, ông đã yêu cầu lực lượng Reichswehr nhỏ hơn nhiều được sáp nhập vào SA để tạo thành một "quân đội nhân dân" thực sự. Điều này đã đánh động cả giới lãnh đạo chính trị và quân sự. Để ngăn chặn khả năng xảy ra một cuộc đảo chính, Hitler đã đứng về phía các nhà lãnh đạo bảo thủ và quân đội. Rohm và toàn bộ lãnh đạo của SA đã bị giết chết (cùng với nhiều đối thủ chính trị của Đức Quốc xã) trong Đêm của những con dao dài. Chương trình mở rộng bí mật của quân đội cuối cùng đã được công khai hóa với thông báo chính thức thành lập Wehrmacht vào năm 1935.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumbnail|Đại tướng [[Hans von Seeckt, Lãnh đạo Reichswehr cùng với bộ binh trong một cuộc diễn tập của Reichswehr ở Thuringia, 1926]] thumb|Màu [[ngụy trang dành cho lều trại của quân Đức, được giới thiệu
**Erich Lüdke** (20 tháng 10 năm 1882 – 13 tháng 2 năm 1946) là một Tướng Bộ binh Đức giữ chức vụ Tổng chỉ huy Quân đội Đức chiếm đóng Đan Mạch trong khoảng thời
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**Nội các Von Schleicher**, đứng đầu bởi Thủ tướng Kurt von Schleicher, là chính phủ thứ 20 của Cộng hòa Weimar. Schleicher lên nắm quyền vào ngày 3 tháng 12 năm 1932 sau khi gây
**Job Wilhelm Georg Erdmann Erwin von Witzleben** (4 tháng 12 năm 1881 - 8 tháng 8 năm 1944) là một Thống chế Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ông là chủ mưu hàng
**Đêm của những con dao dài** (tiếng Đức: ), đôi khi được gọi là **Operation Hummingbird**, hay ở Đức là **Cuộc lật đổ Röhm** (tiếng Đức: ) hay đôi khi gọi với một cách châm
:_Lục quân Đế quốc Đức được đổi hướng đến đây. Để tìm hiểu các nghĩa khác, xem bài Lục quân Đế quốc La Mã Thần thánh và Lục quân Áo và Hungary trong Chiến tranh
**Oskar-Heinz** (**Heinrich**) "**Pritzl**" **Bär** (25 tháng 5 năm 1913 – 28 tháng 4 năm 1957) là phi công ách chủ bài của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai với thành tích bắn hạ
thumb|Cặp lồng của [[Hoa Kỳ thời tiền chiến và trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất]] **Cặp lồng**, còn gọi là _Hộp đựng cơm_, hoặc _Cà mèn_ (tiếng Pháp: _gamelle_) là những đồ dùng bằng
**Ernst Julius Günther Röhm** (; 28 tháng 11 năm 1887 – 1 tháng 7 năm 1934) là một sĩ quan quân đội Đức và là thành viên ban đầu của Đảng Quốc xã. Là một trong
**Henning Hermann Karl Robert von Tresckow** (; sinh ngày 10 tháng 1 năm 1901 - mất 21 tháng 7 năm 1944) là một sĩ quan Wehrmacht hàm thiếu tướng. Ông là người đã tổ chức
nhỏ|Trụ sở chính của Quân đoàn I ở Königsberg nhỏ|Quân đoàn 1 trong Đế quốc Đức, trước Thế chiến thứ nhất **Quân đoàn I** (Tiếng Đức: **_I. Armee-Korps / I AK_**) là một đơn vị
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|_The Signing of the Peace Treaty of Versailles_ **Hòa ước Versailles** năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ
**Siegmund Wilhelm List** (14 tháng 5 năm 1880 – 17 tháng 8 năm 1971) là một trong số các thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
phải|Tên lửa [[Titan II phóng tàu vũ trụ Gemini vào những năm 1960.]] **Cuộc chạy đua vào vũ trụ** hay **cuộc chạy đua vào không gian** là cuộc cạnh tranh thám hiểm vũ trụ gay
nhỏ|200x200px|Thượng úy Quân đội nhân dân Việt Nam nhỏ|Thượng úy Công an nhân dân Việt Nam|201x201px **Thượng úy** là một danh xưng cấp bậc quân sự ở một số quốc gia. Cấp bậc này thường
**Cộng hòa Weimar** () là tên sử gia gọi chính phủ và nhà nước Đức trong khoảng thời gian từ ngày 9 tháng 11 năm 1918 trong cuộc Cách mạng tháng 11, sau khi Chiến
nhỏ|Quân kỳ và là cờ hiệu của Kriegsmarine **Wehrmacht** (tiếng Đức: _Lực lượng Quốc Phòng_) là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Augsburg** (phiên âm tiếng Việt: **Au-xbuốc**; , , ; ) là một thành phố nằm tại Schwaben, bang Bayern, miền nam Đức. Đây là thành phố lớn thứ ba ở bang sau Munich và Nuremberg
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Neubaufahrzeug** là tên một dự án tăng hạng nặng do Adolf Hitler khởi xướng khi ông nắm quyền vào năm 1933 và giao cho Rheinmentall sản xuất. Nặng, to và quá cồng kềnh-Neubaufahrzeug chỉ được
**Wilhelm Ritter von Leeb** (5 tháng 9 năm 1876 – 29 tháng 4 năm 1956) là một trong những thống chế Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tư lệnh cụm tập
**Wilhelm Bodewin Gustav Keitel** (22 tháng 9 1882 – 16 tháng 10 1946) là thống chế, chỉ huy trưởng Bộ tư lệnh tối cao (OKW) của quân đội Đức Quốc xã và bộ trưởng bộ
**Thượng tướng Kỵ binh** (tiếng Đức: _General der Kavallerie_) là một cấp bậc tướng lĩnh cao cấp trong lịch sử quân sự của Áo và Đức. Cấp bậc này bắt đầu từ tước hiệu Chỉ
**_Maschinengewehr_ 30**, hay **MG 30** là súng máy được Đức thiết kế được sử dụng bởi các lực lượng vũ trang trong những năm 1930. Nó cũng đã được sửa đổi để trở thành súng
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**Johannes Friedrich "Hans" von Seeckt** (22 tháng 4 năm 1866 – 27 tháng 12 năm 1936) là một vị Sĩ quan Quân đội Đức, ông là người có công gầy dựng lực lượng Quân đội
**Albrecht Ritter Mertz von Quirnheim** (25 tháng 3 năm 1905 – 21 tháng 7 năm 1944) là một sĩ quan Đức và là một phi công lái máy binh tiêm kích của Đức Quốc Xã.
**Schnez-Truppe** (nghĩa là _Tổ chức Schnez_) là một tổ chức bán quân sự bí mật bất hợp pháp được thành lập ở Tây Đức vào khoảng năm 1949, gồm các cựu binh Đức từng phục
**Boris Mironovich Feldman** (; 1890-1937) là một chỉ huy quân sự và chính khách Liên Xô. Ông bị hành quyết trong cuộc Đại thanh trừng và được phục hồi trong Thời kỳ tan băng Khrushchyov.
Đội Cận vệ SS (Schutzstaffel) được thành lập vào ngày 4 tháng 4 năm 1925 như là đội cận vệ riêng cho Adolf Hitler. Từ tháng 8 năm 1934 đến tháng 5 năm 1945, đội
Tháp canh ở khu tưởng niệm Buchenwald, năm 1983 **Trại tập trung Buchenwald** (tiếng Đức: _Konzentrationslager (KZ) Buchenwald_, (rừng cây sồi) là một trại tập trung do Đức Quốc xã lập ra ở _Ettersberg_ (núi
**Nội các Papen**, do Franz von Papen – một nhân vật độc lập – đứng đầu, là chính phủ thứ 19 của Cộng hòa Weimar. Nội các này nhậm chức ngày 1 tháng 6 năm
**_Reichsmarine_** (**Hải quân Đế chế**) là tên gọi của Hải quân Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và hai năm đầu tiên của Đức Quốc xã. Đây là nhánh hải quân của _Reichswehr_, tồn tại
nhỏ|275x275px|Các thành viên SS Na Uy trong một buổi lễ tuyên thệ **Lời thề với Hitler** được một số tổ chức tại Đức Quốc Xã yêu cầu cán bộ phải tuyên thệ tới đích danh
**Vjekoslav Luburić** (6 tháng 3 năm 1914 – 20 tháng 4 năm 1969) là một sĩ quan Ustaše người Croatia đảm trách vị trí đứng đầu hệ thống các trại tập trung ở Nhà nước Độc
**Quân đoàn cơ giới hóa** là hình thức tổ chức đội hình tác chiến được Liên Xô sử dụng trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Giai đoạn đầu phát triển Ở
**Dòng thời gian sơ khai** của **chủ nghĩa Quốc xã** bắt đầu từ lúc thành lập cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền (tháng 8 năm 1934). ## Ảnh hưởng từ thế kỷ 19
**Maximilian Maria Joseph Karl Gabriel Lamoral Reichsfreiherr von und zu Weichs an der Glon** (12 tháng 11 năm 1881 - 27 tháng 9 năm 1954) là một thống chế Wehrmacht của Đức Quốc xã trong
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
**Brandenburger** () là danh xưng dùng để chỉ các thành viên của đơn vị lực lượng đặc biệt Đức Quốc xã Brandenburg trong Thế chiến thứ hai. Ban đầu, đơn vị được thành lập và