✨Quốc hội Weimar

Quốc hội Weimar

Quốc hội Weimar (), tên chính thức là Quốc hội lập hiến Đức () là cơ quan lập pháp, lập hiến của Đức từ ngày 6 tháng 2 năm 1919 đến ngày 21 tháng 5 năm 1920. Quốc hội Weimar phê chuẩn Hòa ước Versailles và ban hành Hiến pháp Weimar, có hiệu lực từ năm 1919 đến năm 1933. Quốc hội Weimar giải tán vào ngày 21 tháng 5 năm 1920.

Quốc hội Weimar họp tại Weimar chứ không phải Berlin cho nên chế độ chính trị trong thời kỳ này được gọi là Cộng hòa Weimar.

Bối cảnh

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Bundesarchiv_Bild_102-00015,_Friedrich_Ebert_(cropped).jpg|trái|nhỏ|216x216px|[[Friedrich Ebert]] Cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất, Cách mạng Đức bùng nổ. Hội đồng đại biểu nhân dân được thành lập vào ngày 10 tháng 11 tại Berlin để tiếp quản chính quyền từ chế độ cũ. Friedrich Ebert thuộc Đảng Dân chủ Xã hội Đức là người đứng đầu hội đồng, đã được Maximilian xứ Baden bổ nhiệm làm thủ tướng vào ngày 9 tháng 11. Von Baden và Đảng Dân chủ Xã hội Đức đề nghị tổ chức bầu cử Quốc hội nhằm thành lập một chính phủ mới. Ngày 30 tháng 11, Hội đồng đại biểu nhân dân ấn định ngày bầu cử Quốc hội là ngày 19 tháng 1 năm 1919. Ngày 19 tháng 12, Đại hội các Hội đồng công nhân và quân nhân Đức biểu quyết tán thành quyết định của Hội đồng đại biểu nhân dân.

Do cuộc nổi dậy Spartacus, tổng đình công và xung đột vũ trang tại Berlin từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 1 năm 1919, Quốc hội quyết định họp tại một địa điểm khác. Trong bốn địa điểm Bayreuth, Nürnberg, Jena và Weimar, Friedrich Ebert đề xuất Weimar vì là nơi khai sinh chủ nghĩa cổ điển Weimar mà tiêu biểu là Goethe và Schiller, là một bối cảnh phù hợp cho Khối Đồng Minh thảo luận hòa ước. Ngày 14 tháng 1 năm 1919, Quốc hội quyết định họp tại Weimar.

Bầu cử

Bầu cử Quốc hội Weimar là lần đầu tiên phụ nữ được trao quyền bầu cử và độ tuổi bầu cử được giảm từ 25 xuống 20 tuổi. Trong số 20 triệu cử tri, 83% đi bầu, thấp hơn tỷ lệ đi bầu trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1912 nhưng với tổng số lượng cử tri cao hơn; tỷ lệ nữ cử tri đi bầu là 90%. Đảng Cộng sản Đức tẩy chay cuộc bầu cử.

Đảng Dân chủ Xã hội Đức giành được 38% số phiếu bầu cử, Đảng Trung dung Đức (lúc đó được gọi là Đảng Nhân dân Kitô giáo) giành được 20% số phiếu bầu cử, Đảng Dân chủ Đức giành được 19% số phiếu bầu cử, Đảng Nhân dân Quốc gia Đức giành được 10% số phiếu bầu cử và Đảng Dân chủ Xã hội Độc lập Đức (ly khai khỏi Đảng Dân chủ Xã hội Đức) giành được 8% số phiếu bầu cử. Những đảng khác trúng cử số ghế còn lại. Quốc hội Weimar là một trong những cơ quan lập pháp có nhiều phụ nữ nhất vào thời điểm đó: trong số 416 đại biểu Quốc hội, ban đầu có 36 nữ đại biểu, về sau tăng lên 41 nữ đại biểu. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:German_Federal_Election,_1919.svg|nhỏ|291x291px|Kết quả bầu cử Quốc hội Weimar Ngày 10 tháng 2, Quốc hội thông qua Luật Chính quyền lâm thời, quy định quyền hạn của chính phủ trong thời kỳ chuyển tiếp từ Đế quốc Đức sang Cộng hòa Weimar. Quốc hội tự phong làm cơ quan lập pháp lâm thời với nhiệm vụ làm hiến pháp và ban hành những đạo luật cần thiết. Một Ủy ban các bang được thành lập làm cơ quan đại diện của các bang Đức, về sau được thay thế bằng Reichsrat. Tổng thống có nhiệm vụ "xử lý công việc nhà nước" giống như chức danh hoàng đế nhưng quyền hạn bị hạn chế theo cải cách hiến pháp tháng 10 năm 1918, ví dụ như Quốc hội quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình. Bộ trưởng do tổng thống bổ nhiệm với sự phê chuẩn của Quốc hội.

Quốc hội họp lần đầu tiên

Quốc hội họp lần đầu tiên ở Nhà hát Quốc gia Đức tại Weimar vào ngày 6 tháng 2 năm 1919. Eduard David thuộc Đảng Dân chủ Xã hội Đức được bầu làm chủ tịch nhưng từ chức chỉ sau bốn ngày theo một thỏa thuận giữa các đảng. Ngày 14 tháng 2 năm 1919, Quốc hội bầu Constantin Fehrenbach thuộc Đảng Trung dung Đức làm chủ tịch mới.

Ngày 11 tháng 2, Quốc hội bầu Friedrich Ebert làm tổng thống lâm thời. Ebert mời Philipp Scheidemann thuộc Đảng Dân chủ Xã hội Đức thành lập một chính phủ liên hiệp gồm Đảng Dân chủ Xã hội Đức, Đảng Trung dung Đức và Đảng Dân chủ Đức, được gọi là Liên minh Weimar.

Thảo luận Hòa ước Versailles

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Bundesarchiv_Bild_146-1979-122-29A,_Philipp_Scheidemann.jpg|trái|nhỏ|228x228px|Philipp Scheidemann Quốc hội họp lần đầu tiên tại Berlin vào ngày 12 tháng 5 năm 1919 để nghe, thảo luận bài phát biểu của Thủ tướng Philipp Scheidemann về Hòa ước Versailles. Scheidemann gọi những yêu sách lãnh thổ, kinh tế và chính trị của Khối Đồng Minh là hòa bình "cưỡng chế" () nhằm bức tử dân tộc Đức. Ông tuyên bố bác bỏ những điều kiện của hòa ước và sẽ chỉ thương lượng theo Mười bốn Điểm của Woodrow Wilson. Thủ hiến Phổ Paul Hirsch thay mặt các bang Đức tuyên bố hoàn toàn ủng hộ chính phủ Đức và chỉ trích gay gắt những điều kiện của Khối Đồng Minh. Tất cả các đảng đều tuyên bố không thể chấp nhận những yêu sách của Khối Đồng Minh. Gustav Stresemann, chủ tịch Đảng Nhân dân Đức và về sau là bộ trưởng bộ ngoại giao, gọi những điều kiện hòa bình là "một sự tuôn trào bạo dâm chính trị". Chỉ Hugo Hasse, chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội Độc lập Đức, công kích cả Khối Đồng Minh về những yêu sách hòa bình lẫn chính phủ Đức vì đã thi hành chính sách "hòa bình thành trì" () trong thời kỳ chiến tranh.

Nội các Scheidemann từ chức vào ngày 20 tháng 6 năm 1919 sau khi Khối Đồng Minh bác bỏ đề nghị của chính phủ Đức. Tân Thủ tướng Gustav Bauer thuộc Đảng Dân chủ Xã hội Đức ủng hộ ký hòa ước nhưng chỉ trích một vài điều khoản, nhất là yêu cầu dẫn độ công dân Đức cho Khối Đồng Minh và quy trách nhiệm gây chiến chỉ cho Đức. Ông tuyên bố chính phủ Đức không thể đáp ứng những điều kiện kinh tế của Hòa ước Versailles.

Lần biểu quyết đầu tiên

Paul Löbe thuộc Đảng Dân chủ Xã hội Đức và Adolf Gröber thuộc Đảng Trung dung Đức lên án hòa ước, cụ thể là điều khoản quy trách nhiệm gây chiến chỉ cho Đức, nhưng ủng hộ ký hòa ước do hậu quả tàn khốc hơn là chiến sự tiếp tục. Nguyên bộ trưởng bộ tài chính Eugen Schiffer thuộc Đảng Dân chủ Đức phản đối ký hòa ước. Đảng Nhân dân Quốc gia Đức và Đảng Nhân dân Đức cũng kịch liệt phản đối hòa ước Đảng Dân chủ Xã hội Độc lập Đức là đảng đối lập duy nhất ủng hộ ký hòa ước. Hugo Haase nhận định vấn đề ký hòa ước là một tình huống tiến thoái lưỡng nan cho Quốc hội; một mặt ông cũng chỉ trích gay gắt hòa ước, mặt khác ông phải thừa nhận hậu quả của việc bác bỏ hòa ước.

Trong cuộc điểm danh ngày 22 tháng 6, 237 đại biểu biểu quyết tán thành ký hòa ước, 138 đại biểu biểu quyết không tán thành và năm đại biểu biểu quyết trắng. Trong số các đảng lớn, Đảng Dân chủ Xã hội Đức, Đảng Trung dung Đức và Đảng Dân chủ Xã hội Độc lập Đức ủng hộ ký hòa ước, trong khi Đảng Dân chủ Đức, Đảng Nhân dân Quốc gia Đức và Đảng Nhân dân Đức phản đối.

Trong cùng ngày, chính phủ Đức thông báo cho Khối Đồng Minh rằng sẽ ký hòa ước với điều kiện không chấp nhận điều khoản về trách nhiệm gây chiến và dẫn độ công dân Đức cho các nước Đồng Minh. Thủ tướng Pháp Georges Clemenceau thay mặt Khối Đồng Minh bác bỏ đề nghị này và tuyên bố Đức chỉ được chấp nhận hoặc bác bỏ toàn bộ hòa ước.

Lần biểu quyết thứ hai

Tại một phiên họp Quốc hội vào ngày 23 tháng 6, Bauer thông báo lập trường của Khối Đồng Minh cho các đại biểu và thừa nhận chính phủ buộc phải ký hòa ước:

Ngày 9 tháng 7 năm 1919, Quốc hội phê chuẩn Hòa ước Versailles bằng cách thông qua Luật Xác lập hòa bình giữa Đức và các nước Đồng Minh, các nước liên kết với kết quả biểu quyết giống như cuộc biểu quyết ngày 22 tháng 6. Khác biệt duy nhất là đa số đại biểu thuộc Liên đoàn Nông dân Bayern bây giờ biểu quyết tán thành.

Ngày 20 tháng 8 năm 1919, Quốc hội thành lập một ủy ban đặc biệt có nhiệm vụ điều tra về tội lỗi của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất theo điều 231 Hòa ước Versailles. Ủy ban gồm bốn tiểu ban chuyên nghiên cứu về những nguyên nhân của cuộc chiến tranh, lý do thất bại, cơ hội cầu hòa và cáo buộc vi phạm luật quốc tế. Cuộc điều tra kéo dài 13 năm do sự bất hợp tác của chính phủ, quân đội trước khi bị Đảng Quốc Xã chấm dứt sau khi đảng thắng cử trong cuộc bầu cử quốc hội tháng 7 năm 1932. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Hugo_Preu%C3%9F_1919_(cropped).jpg|nhỏ|Hugo Preuß

Thảo luận lập hiến

Ngày 15 tháng 11 năm 1918, Friedrich Ebert bổ nhiệm Hugo Preuß làm bộ trưởng bộ nội vụ và giao ông nhiệm vụ soạn thảo dự thảo hiến pháp. Là một giáo sư luật hiến pháp và một trong những người sáng lập Đảng Dân chủ Đức, Preuß dựa vào Hiến pháp Frankfurt, được ban hành sau Cách mạng Đức năm 1848–1849 nhằm thống nhất Đức nhưng thất bại. Ông chủ trương thành lập một chế độ đại nghị theo lý thuyết của Robert Redslob, phân chia quyền hạn giữa chính phủ và cơ quan lập pháp dưới một quốc vương hoặc tổng thống. Sau khi Quốc hội nhóm họp, Preuß được bổ nhiệm làm một thành viên của ủy ban lập hiến do Phó Chủ tịch Quốc hội Conrad Haußmann làm chủ nhiệm. Về sau, Preuß trở thành cha đẻ của Hiến pháp Weimar.

Trong tháng 7 năm 1919, Quốc hội nhanh chóng thảo luận dự thảo hiến pháp, đa số các vấn đề được quyết định trong một phiên họp. Ngày 31 tháng 7 năm 1919, Quốc hội thông qua hiến pháp với 262 đại biểu biểu quyết tán thành, 75 đại biểu biểu quyết không tán thành.

Dòng thời gian các sự kiện quan trọng

  • Ngày 6 tháng 2 năm 1919 – Friedrich Ebert, chủ tịch Hội đồng đại biểu nhân dân, khai mạc phiên họp đầu tiên của Quốc hội.
  • Ngày 10 tháng 2 năm 1919 – Quốc hội thông qua Luật Chính quyền lâm thời, quy định Quốc hội là cơ quan lập pháp, thành lập chức danh tổng thống với nhiệm vụ "xử lý công việc nhà nước". Một Ủy ban các bang được thành lập làm cơ quan đại diện của các bang Đức.
  • Ngày 11 tháng 2 năm 1919 – Friedrich Ebert được bầu làm tổng thống lâm thời. Ông mời Philipp Scheidemann thành lập một chính phủ
  • Ngày 13 tháng 2 năm 1919 – Scheidemann thành lập một chính phủ liên hiệp
  • Ngày 14 tháng 2 năm 1919 – Constantin Fehrenbach thuộc Đảng Trung dung Đức được bầu làm chủ tịch Quốc hội.
  • Ngày 27 tháng 2 năm 1919 – Quốc hội thông qua luật thành lập một quân đội lâm thời theo hiệp định ngừng bắn.
  • Ngày 4 tháng 3 năm 1919 – Quốc hội thông qua luật xác định hiệu lực của những đạo luật của chế độ cũ và Hội đồng đại biểu nhân dân.
  • Ngày 12 tháng 5 năm 1919 – Quốc hội tham gia biểu tình phản đối Hòa ước Versailles.
  • Ngày 20/1 tháng 6 năm 1919 – Nội các Scheidemann từ chức. Gustav Bauer thành lập một chính phủ mới
  • Ngày 22 tháng 6 năm 1919 – Chính phủ Đức tuyên bố chấp nhận Hòa ước Versailles với điều kiện bỏ điều khoản quy trách nhiệm gây chiến cho Đức
  • Ngày 3 tháng 7 năm 1919 – Quốc hội quy định quốc kỳ mới
  • Ngày 7 tháng 7 năm 1919 – Bộ trưởng bộ ngoại giao Matthias Erzberger thuộc Đảng Trung dung Đức trình cải cách tài chính trước Quốc hội, bao gồm đề nghị áp thuế thu nhập đầu tiên của Đức và chia sẻ nghĩa vụ tài chính.
  • Ngày 9 tháng 7 năm 1919 – Quốc hội phê chuẩn Hòa ước Versailles và quy chế chiếm đóng Rheinland
  • Ngày 31 tháng 7 năm 1919 – Quốc hội thông qua Hiến pháp Weimar với 262 đại biểu biểu quyết tán thành, 75 đại biểu biểu quyết không tán thành
  • Ngày 11 tháng 8 năm 1919 – Tổng thống Ebert công bố hiến pháp.
  • Ngày 14 tháng 8 năm 1919 – Hiến pháp Weimar có hiệu lực. Quốc hội họp lần cuối cùng tại Weimar.
  • Ngày 30 tháng 9 năm 1919 – Quốc hội họp lần đầu tiên tại Berlin.
  • Ngày 17 tháng 12 năm 1919 – Quốc hội thông qua luật áp thuế tài sản một lần để trả nợ quốc gia.
  • Ngày 18 tháng 1 năm 1920 – Quốc hội thông qua luật về hội đồng công nhân.
  • Ngày 13 tháng 3 năm 1920 – Quốc hội dời từ Berlin đến Stuttgart sau Chính biến Kapp.
  • Ngày 20 tháng 3 năm 1920 – Quốc hội trở về Berlin.
  • Ngày 25/26 tháng 3 năm 1920 – Nội các Bauer từ chức. Tổng thống Ebert mời Hermann Müller thành lập một chính phủ mới.
  • Ngày 8 tháng 5 năm 1920 – Luật thành lập một khu vực an ninh quanh trụ sở Quốc hội có hiệu lực.
  • Ngày 12 tháng 5 năm 1920 – Luật quy định chế độ kiểm duyệt đối với phim có hiệu lực.
  • Ngày 20 tháng 5 năm 1920 – Quốc hội đề nghị chính phủ chấm dứt tình trạng khẩn cấp trên cả nước nhưng chính phủ từ chối.
  • Ngày 21 tháng 5 năm 1920 – Quốc hội giải tán.

Danh sách chủ tịch Quốc hội Weimar

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quốc hội Weimar** (), tên chính thức là **Quốc hội lập hiến Đức** () là cơ quan lập pháp, lập hiến của Đức từ ngày 6 tháng 2 năm 1919 đến ngày 21 tháng 5
**Quốc hội Liên bang** (, ) là hạ viện của Nghị viện Đức, còn gọi là _Viện dân biểu_. Là cơ quan lập hiến và lập pháp tại Đức. Quốc hội Liên bang được lập
**Saxe-Weimar-Eisenach** (tiếng Đức: _Sachsen-Weimar-Eisenach_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được thành lập như một công quốc vào năm 1809 bởi sự hợp nhất của Sachsen-Weimar và Sachsen-Eisenach thuộc các công
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Quốc kỳ Đức** () gồm ba dải ngang bằng hiển thị các màu quốc gia của Đức: đen, đỏ, vàng. Thiết kế này được thông qua làm quốc kỳ của nước Đức hiện đại vào
**Cộng hòa Weimar** () là tên sử gia gọi chính phủ và nhà nước Đức trong khoảng thời gian từ ngày 9 tháng 11 năm 1918 trong cuộc Cách mạng tháng 11, sau khi Chiến
**Phổ** (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: _Borussia_, _Prutenia_; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: _Prūsija_; tiếng Ba Lan: _Prusy_; tiếng Phổ cổ: _Prūsa_) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg,
**Dòng thời gian sơ khai** của **chủ nghĩa Quốc xã** bắt đầu từ lúc thành lập cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền (tháng 8 năm 1934). ## Ảnh hưởng từ thế kỷ 19
**Quốc huy Đức** là một biểu tượng của Đức với hình tượng một con đại bàng. Màu của quốc huy tương tự với màu của quốc kỳ Đức (đen, đỏ, vàng) và nó còn được
thumb|Nửa phía tây của nghĩa trang. **Nghĩa trang Lịch sử Weimar** là một trong số những nghĩa trang được ghé thăm nhiều nhất tại Đức. Đây là nơi an nghỉ của rất nhiều những nhân
thumb|Quốc huy của các nhà nước trong Đế chế Đức (5 hàng trên) và huy hiệu của các tỉnh trong [[Vương quốc Phổ (2 hàng dưới), năm 1900]] thumb|Bản đồ các Nhà nước cấu thành
Một cuộc trưng cầu ý dân về việc hợp nhất chức vụ thủ tướng Đức và tổng thống Đức được tổ chức ở Đức Quốc Xã vào ngày 19 tháng 8 năm 1934, 17 ngày
**Reichstag** tên chính thức là **Quốc hội Đại Đức** (), có trụ sở tại Berlin, là quốc hội của Đức từ năm 1933 đến năm 1945 và là cơ quan lập pháp cao nhất của
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
**Hội đồng Liên bang Đức** () là thượng viện của Quốc hội Liên bang Đức. Là cơ quan đại diện cho 16 tiểu bang của Đức ở cấp Nhà nước, nên còn gọi là _Viện
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
**Nguyên thủ quốc gia** là người đứng đầu một quốc gia. Trong một số quốc gia, nguyên thủ kiêm trách nhiệm đứng đầu cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, hiện nay ngoài một vài nguyên
[[Tập tin:Socialist states by duration of existence.png|Đây là danh sách nước tự tuyên bố là nước xã hội chủ nghĩa dưới bất kỳ định nghĩa nào, số năm được mã màu khác nhau: Nhấn vào
**Chủ nghĩa quốc gia xã hội**, hay **Chủ nghĩa quốc xã** (, viết tắt là _Nazismus_) là hệ tư tưởng và những hành động của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa
Một cuộc trưng cầu ý dân về việc Đức rời Hội Quốc Liên được tổ chức vào ngày 12 tháng 11 năm 1933 cùng với cuộc bầu cử Quốc hội. Kết quả chính thức cho
**Đảng Dân chủ Xã hội Đức** (, gọi tắt: **SPD**), là một đảng phái chính trị lớn và lâu đời nhất nước Đức. Nó bắt nguồn từ Tổng hội Công nhân Đức (Allgemeiner Deutscher Arbeiterverein)
**Đại công quốc** (, ) là quốc gia do một đại công tước hoặc nữ đại công tước đứng đầu. Có một số đại công quốc tồn tại ở châu Âu trong khoảng thời gian
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Tổng thống Đức** (, nghĩa đen là 'tổng thống của Reich') là nguyên thủ quốc gia của Đức theo Hiến pháp Weimar từ năm 1919 đến năm 1945, bao gồm các thời kỳ của Cộng
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
thumb|[[De facto đơn vị hành chính Đức Quốc xã năm 1944.]] thumb|[[De jure đơn vị hành chính Đức Quốc xã năm 1944.]] thumb|_[[Bang Cộng hòa Weimar|Länder_ (bang) Weimar Đức, 1919–1937.]] thumb|Bản đồ đơn vị hành
Đế kỳ [[Nhà Hohenzollern|Hohenzollern.]] **Đế quốc Đức** (tiếng Đức: _Deutsches Reich_), hay **Đế chế thứ hai** hay **Đệ nhị Đế chế** () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau
**Tòa nhà Reichstag** () là một tòa nhà lịch sử ở Berlin, Đức, được xây dựng cho quốc hội Đế quốc Đức. Đây là nơi diễn ra hội nghị của Quốc hội Đức từ 1894
phải|nhỏ|Chỗ ngồi của Reichsrat (1919–1933) tại tòa nhà của các vị lãnh chúa Phổ cũ trên tòa nhà ERICziger Straße ở Berlin, Đức **Reichsrat** là một trong hai cơ quan lập pháp ở Đức trong
nhỏ|Vòm ánh sáng, Đại hội Đảng Quốc xã năm 1936 nhỏ|Đại hội Đảng lần thứ ba (Nürnberg, 1927) **Đại hội Đảng Quốc xã** (, _Đại hội Đảng Đế chế_) ngày nay thường được dùng để
**Bá quốc Waldeck** (sau này được nâng lên thành **Thân vương quốc Waldeck** và **Thân vương quốc Waldeck và Pyrmont**) là một nhà nước của Đế chế La Mã Thần thánh và những người kế
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
**Công quốc Anhalt** () là một công quốc lịch sử của Đức. Lãnh thổ công quốc này nằm giữa dãy núi Harz ở phía tây và sông Elbe và xa hơn nữa là tới Fläming
nhỏ|Lãnh thổ Đế chế La Mã Thần thánh, khoảng thế kỷ XI. **Công quốc bộ tộc** hay **công quốc gốc** () là các lãnh thổ của các bộ tộc Đức, gồm các tộc người Frank,
**Max Karl Wilhelm von Gallwitz** (2 tháng 5 năm 1852 tại Breslau – 18 tháng 4 năm 1937 tại Napoli) là Thượng tướng pháo binh quân đội Đức thời kỳ Đế quốc. Sinh ra ở
Quảng cáo của triển lãm Werkbund năm 1914 tại Coln **Hiệp hội Công trình Đức** (_Deutscher Werkbund_) là một tổ chức của các kiến trúc sư, các chủ công nghiệp và các nhà thiết kế
**Công quốc Oldenburg** (tiếng Đức: _Herzogtum Oldenburg_) là một nhà nước lịch sử toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức ngày nay. Tên của nó được đặt theo thị trấn Oldenburg, đồng thời cũng là
**Công quốc Braunschweig** (tiếng Đức: _Herzogtum Braunschweig_; tiếng Anh: _Duchy of Brunswick_), là một nhà nước trong lịch sử của Đức, tên của công quốc được đặt theo kinh đô và đô thị lớn nhất
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**Nội các Papen**, do Franz von Papen – một nhân vật độc lập – đứng đầu, là chính phủ thứ 19 của Cộng hòa Weimar. Nội các này nhậm chức ngày 1 tháng 6 năm
**Tổng thống Đức**, chính thức là **Tổng thống liên bang Cộng hòa Liên bang Đức** (), là nguyên thủ quốc gia của Đức. Theo thiết chế trong chính trị Đức, đây là vị trí chủ
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
**Nội các Von Schleicher**, đứng đầu bởi Thủ tướng Kurt von Schleicher, là chính phủ thứ 20 của Cộng hòa Weimar. Schleicher lên nắm quyền vào ngày 3 tháng 12 năm 1932 sau khi gây
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
Trang đầu của Hòa ước Versailles, bản [[tiếng Anh]] thumb|thumbtime=5|_The Signing of the Peace Treaty of Versailles_ **Hòa ước Versailles** năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
phải|Tượng Ernst Thälmann tại [[Weimar.]] **Ernst Thälmann** (tại Việt Nam còn phiên âm là **Tenlơman**) (16 tháng 4 năm 1886 – 18 tháng 8 năm 1944) là nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản của
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự