✨Qatif

Qatif

Qatif hay Al-Qatif ( Al-Qaṭīf) là một tỉnh và khu vực đô thị thuộc vùng Đông, Ả Rập Xê Út. Qatif trải rộng từ Ras Tanura và Jubail tại phía bắc đến Dammam tại phía nam, và từ vịnh Ba Tư tại phía đông đến Sân bay quốc tế King Fahd tại phía tây. Khu vực này có chính quyền đô thị riêng, gồm đô thị Qatif cùng nhiều thành thị nhỏ khác.

Qatif là một trong các khu định cư cổ nhất tại Đông Ả Rập, có lịch sử từ 3.500 TCN. Trước khi phát hiện được dầu mỏ, người Qatif là những thương gia, nông dân và ngư dân. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sau khi phát hiện được dầu mỏ và thành lập thành phố công nghiệp Jubail, hầu hết người Qatif có xu hướng làm việc trong ngành dầu hoả, dịch vụ công, giáo dục và y tế.

Lịch sử

thumb|Khu chợ truyền thống (souq) tại Qatif Qatif trong nhiều thế kỷ có chức năng là điểm mậu dịch quan trọng nhất tại các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh. Thuật ngữ Qatif bắt nguồn từ một âm có nghĩa là "thu hoạch" hoặc "ngũ cốc", thể hiện lịch sử nông nghiệp trong quá khứ của khu vực.

Khu vực ốc đảo lịch sử có bằng chứng khảo cổ học về việc định cư lần đầu từ khoảng 3500 TCN. Địa phương từng được biết đến dưới các tên gọi khác như Al-Khatt (). Cho đến trước khi Đế quốc Ottoman bắt đầu cai trị vào thế kỷ XVIII, Qatif thuộc vùng lịch sử gọi là Bahrain cùng với Al-Hasa và quần đảo Bahrain hiện nay.

Năm 899, giáo phái Qarmat chinh phục khu vực gồm các ốc đảo Qatif và Al-Hasa. Họ tự tuyên bố độc lập và cai trị từ al-Mu'miniya gần Hofuf ngày nay cho đến năm 1071. Vương triều Buyid tại miền tây Ba Tư tấn công Qatif vào năm 988. Từ năm 1071 đến năm 1253, Vương triều Uyunid cai trị khu vực, ban đầu là từ thành phố "al-Hasa" (tiền thân của Hofuf ngày nay) và về sau là từ Qatif. Năm 1253, Vương triều Usfurid khởi nghĩa từ Al-Hasa và cai trị trong cuộc đấu tranh với Hormuz nhằm kiểm soát bờ biển. Có lẽ là vào khoảng thời gian này, Qatif trở thành một cảng lớn cho đại lục, vượt qua 'Uqair về tầm quan trọng đối với mậu dịch và do đó trở thành thủ đô của Usfurid. Quyền lực thay đổi vào năm 1440 sang tay Vương triều Jabrid từ ốc đảo Al-Hasa. Năm 1515, người Bồ Đào Nha chinh phục Hormuz và đánh bại Qatif vào năm 1520, giết người cai trị của Jabrid là Muqrin ibn Zamil. và 'Uqair, song họ không thể đẩy lui người Bồ Đào Nha khỏi đảo Bahrain.

Ngày 10 tháng 3 năm 2011, trong bối cảnh Mùa xuân Ả Rập, "hàng chục" người Shia tham gia một cuộc tập hợp tại trung tâm thành phố để kêu gọi cải cách chính trị trong vương quốc và phóng thích các tù nhân được cho là bị giam giữ mà không được xét xử trong hơn 16 năm. Chính phủ tuyên bố các cuộc kháng nghị là phi pháp và trước đó đã cảnh báo chống hành động này. Cảnh sát khai hoả vào những người kháng nghị. Các cuộc kháng nghị tiếp tục tại Qatif tiếp tục trong suốt năm 2011.

Các nhà hoạt động tường thuật rằng có bảy người kháng nghị bị giết chết kể từ tháng 11 năm 2011 đến ngày 10 tháng 2 năm 2012 tại Qatif. Cuộc tuần hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2012 theo tường thuật là được tổ chức nhằm chống việc giết hại những người kháng nghị kêu gọi cải cách, và kết thúc kỳ thị giáo phái và phóng thích các tù nhân chính trị, song bị cảnh sát tấn công. Tháng 7 năm 2012, chính phủ bắt giữ nhà thuyết pháp Shia Nimr al-Nimr, là người kêu gọi phản đối chính phủ. Vụ bắt giữ nhân vật biểu tượng của thành phố Qatif khiến nhân dân nhanh chóng tiến hành kháng nghị ngay tối hôm đó, các tay súng bắt tỉa của chính phủ được cho là giết chết hai người biểu tình.

Khí hậu

Qatif có khí hậu lục địa, nhiệt độ đạt đến 50 °C vào mùa hè và độ ẩm trung bình là 75%. Trong mùa đông, nhiệt độ dao động từ 2 đến 18 °C. Trong các tháng 5-6, gió mùa ấm được gọi là albwarh ảnh hưởng đến khu vực. Thời gian còn lại trong năm, gió nam ẩm được gọi là alcos mang theo hơi ẩm. Khu vực có ít mưa.

Nhân khẩu

Khu vực Qatif là nơi tập trung đông đảo nhất tín đồ Hồi giáo Shia tại Ả Rập Xê Út; ít hơn 3% cư dân Qatif là tín đồ Hồi giáo Sunni. Qatif là trung tâm dân cư Shia tại Ả Rập Xê Út. Kể từ năm 2005, chính phủ nới lỏng các hạn chế về kỷ niệm ngày Ashura tại nơi công cộng.

Tính đến năm 2009, tổng dân số Qatif là 474.573.

Cư dân Qatif có thể làm việc trong ngành dầu hoả (Saudi Aramco, Schlumberger, Halliburton và Baker Hughes). Một số người lao động chuyển đến Dhahran, là nơi có trụ sở của các công ty này, song đa số vẫn sống tại Qatif và đi đến Dhahran bằng ô tô cá nhân hoặc xe buýt của Saudi Aramco với hành trình 30 phút. Các công việc khác là trong các nhà máy lọc dầu của Saudi Aramco tại Ras Tanura, hay các công ty hoá dầu tại Jubail (80 km từ Qatif), một số đi về hàng ngày và một số chuyển đến Jubail. Tuy vậy, công ty sản xuất SABIC là hãng tuyển dụng nhiều nhất tại Qatif. Một số người Qatif làm việc trong dịch vụ công, y tế và giáo dục.

Đường bờ biển Qatif phong phú về tôm và có nhiều loại cá. Chợ cá Qatif có quy mô lớn nhất tại Trung Đông. Các làng mạc tại Qatif nổi tiếng vì trồng nhiều cây chà là và các loại cây ăn quả khác.

Giáo dục

Thành phố có hạ tầng giáo dục hoàn chỉnh từ tiểu học đến trung học, do chính phủ và Saudi Aramco xây dựng. Hầu hết trường học là trường công lập, song cũng có một số trường tư thục.

Du lịch

thumb|Thành Tarout

  • Qatif nổi tiếng với các khu chợ truyền thống (souq) như chợ Thứ Năm hàng tuần "Suq Alkhamees" và "Suq Waqif"
  • Nơi dạo mát đẹp dọc bờ biển
  • Thành Tarout
  • Thành phố còn nổi tiếng với các khu vực nông nghiệp rộng lớn, phong phú về các loài thực vật và cây chà là.
  • Qatif cũng nổi tiếng nhờ di sản lịch sử cổ, chịu ảnh hưởng từ nhiều nền văn minh khác nhau từng tồn tại nhiều thế kỷ tại địa phương. Điều này được phản ánh trong kiến trúc của các toà nhà cổ nằm trong các khu vực làng cổ của Qatif (Al-Awamiyah, Al-Qudaih, Al Qala'a).
  • Các lễ hội khác nhau được tổ chức khắp cả năm như Aldoukhala, Eid.

Giao thông

Sân bay quốc tế King Fahd phục vụ nhu cầu hàng không của thành phố, khoảng cách từ nhà ga đến trung tâm thành phố là 30 km.

Qatif có liên kết giao thông đường cao tốc ưu việt so với các trung tâm đô thị khác trong nước, chủ yếu là đường cao tốc Dhahran-Jubail chạy qua Qatif, và đường cao tốc Abu Hadriyah đánh dấu ranh giới phía tây của Qatif và tách nó khỏi sân bay. Đường vùng Vịnh liên kết đến thành phố với Dammam.

Thành phố cũng nằm gần tuyến đường đắp cao nối Ả Rập Xê Út với đảo quốc Bahrain (khoảng 55 km).

Đô thị và làng

Một số dô thị và làng hình thành quận Qatif:

  • Thành phố Al-Qatif
  • Al-Qala'a *Đảo Tarout
  • Umm-Sahik Thành phố Saihat Sanabes Al-Rabi'ia Al-Awamiyah Al-Jish Al-Qudaih Al-Jaroudiya] Umm Al-Hamam Al-Taubi Al-Khuwailidiya Hellat-Muhaish Enak Al-Awjam Al-Malahha *Al-Rabeeya
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Qatif** hay **Al-Qatif** ( _Al-Qaṭīf_) là một tỉnh và khu vực đô thị thuộc vùng Đông, Ả Rập Xê Út. Qatif trải rộng từ Ras Tanura và Jubail tại phía bắc đến Dammam tại phía
Sheikh **Hassan al-Saffar** (, sinh năm 1958) là một học giả Shi'a đến từ Qatif, Ả Rập Xê Út. Ông được xem như một trong những thủ lĩnh Shi'a quan nhất tại nước này. Saffar
nhỏ|B737 của Sama Airlines tại sân bay quốc tế King Fahd, Dammam bound for Prince Mohammad Bin Abdulaziz Airport, Medina. Nhìn từ sảnh của ga đi. **Sân bay quốc tế King Fahd** () nằm cách
**Thống nhất Ả Rập Xê Út** là một chiến dịch quân sự và chính trị, trong quá trình này Nhà Saud chinh phục nhiều bộ lạc, tù bang, vương quốc trên hầu hết bán đảo
**Vùng Đông** ( __) là vùng có diện tích lớn nhất của Ả Rập Xê Út. Thủ phủ của vùng là thành phố Dammam, đây cũng là nơi cư trú của đa số cư dân
**Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Ả Rập Xê Út và Iran** (đôi khi được gọi là Chiến tranh Lạnh Ả-rập Xê-út – Iran hay Chiến tranh Lạnh ở Trung Đông) là cuộc đấu tranh đang
**Al-Ahsa**, **Al-Hasa**, hay **Hadjar** ( _al-Aḥsāʾ_, theo âm địa phương là _al-Ahasā_) là một vùng ốc đảo truyền thống nằm tại miền đông của Ả Rập Xê Út. Tên gọi của ốc đảo này được
**Ả Rập Xê Út** (, "thuộc về Nhà Saud", cũng được viết là **Ả Rập Saudi**, **Arab Saudi**, **Saudi Arabia**), tên gọi chính thức là **Vương quốc Ả Rập Xê Út** , "Vương quốc Ả
**Bán đảo Ả Rập** ( __, "đảo Ả Rập") là một bán đảo nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía đông bắc châu Phi, trên mảng Ả Rập. Theo góc nhìn địa lý, đây
**Bahrain** (phiên âm tiếng Việt: _Ba-ranh_ (theo phiên âm từ tiếng Pháp); ), gọi chính thức là **Vương quốc Bahrain** ( __), là một quốc gia quân chủ Ả Rập trên vịnh Ba Tư. Đây
**Dammam** ( __) là thủ phủ của vùng Đông thuộc Ả Rập Xê Út. Đây là thành phố lớn nhất trong vùng Đông, và lớn thứ sáu toàn quốc. Giống như các thủ phủ vùng
**Ibn Battuta** (25 tháng 2 năm 1304 – 1368 hoặc 1369) (Tên đầy đủ: Abu Abdullah Muhammad Ibn Abdullah Al Lawati Al Tanji Ibn Battuta, ) là học giả và nhà du hành người Maroc,
**Sự phân chia Đế quốc Ottoman** (Đình chiến Mudro, ngày 30 tháng 10 năm 1918 - Sự bãi nhiệm của Vương quốc Hồi giáo Ottoman, ngày 1 tháng 11 năm 1922) là một sự kiện
**Jubail** (, _Al Jubayl_) là một thành phố thuộc vùng Đông của Ả Rập Xê Út. Thành phố nằm bên vịnh Ba Tư , có đô thị công nghiệp lớn nhất tại Trung Đông. Jubail
**Dhahran** (tiếng Ả Rập: _aẓ-Ẓahrān_) là một thành phố thuộc vùng Đông của Ả Rập Xê Út. Đây là một trung tâm quản trị lớn của ngành dầu mỏ Ả Rập Xê Út. Dhahran cùng
**Vương quốc Hejaz và Nejd** (, **'), ban đầu là **Vương quốc Hejaz và Vương quốc Nejd** (, **'), là chế độ quân chủ kép dưới quyền Ibn Saud sau khi Vương quốc Nejd của
thumb|Đông Ả Rập (vùng lịch sử Bahrain) trên một bản đồ năm 1745 của [[Jacques-Nicolas Bellin|Bellin.]] **Đông Ả Rập**, trong lịch sử được gọi là **Bahrain** () cho đến thế kỷ 18. Khu vực này
**Quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới ở Ả Rập Xê Út** phải đối mặt với những thách thức pháp lý mà những người LGBT gặp phải và Ả Rập
**_Anopheles_** (còn gọi là _a-nô-phen_, bắt nguồn từ tiếng Pháp: _anophèle_) là một chi muỗi được JW Meigen mô tả lần đầu tiên vào năm 1818. Chi muỗi này còn có tên gọi là **muỗi
**Số điện thoại ở Ả Rập Xê Út** có 7 chữ số, 5 chữ số (00966) cho mã vùng (từ 011 đến 017 trừ 05X có mã được giới hạn ở số di động). ##