Pharaon (tiếng Copt: ⲡⲣ̅ⲣⲟ Pǝrro; phiên âm tiếng Việt: Pharaông; trong tiếng Ai Cập cổ có nghĩa là "ngôi nhà vĩ đại") là tước hiệu chỉ các vị vua của Ai Cập cổ đại từ Vương triều thứ Nhất cho đến khi bị Đế Quốc La Mã thôn tính năm 30 TCN. Trên thực tế, tước hiệu này chỉ được sử dụng chính thức từ thời kỳ Tân Vương quốc, nhất là Vương triều thứ 18 nhưng ngày nay đã trở nên thông dụng trong việc dùng để chỉ tất cả các vị vua Ai Cập cổ đại.
Tên gọi
Pharaon, nghĩa là "ngôi nhà vĩ đại", ban đầu được dùng để chỉ cung điện của vua, nhưng dưới triều đại của Thutmose III (1479–1425 trước công nguyên), sau sự cai trị ngoại lai của Hyksos, đã trở thành cách gọi nhà vua và con trai của thần Ra. "Người ta nói rằng vị thần mặt trời Ai Cập Ra, được xem là cha của mọi pharaon, đã tạo ra chính mình từ một mô đất hình kim tự tháp trước khi sinh ra tất cả các vị thần khác." (Donald B. Redford, tiến sĩ, Penn State)
Thuật ngữ pharaon xuất phát từ một từ nối ', được viết bằng hai dấu hiệu hai chữ ' "ngôi nhà" và __ "cây cột". Từ này chỉ được dùng trong các cụm từ lớn hơn như smr pr-ꜥꜣ 'cận thần của ngôi nhà tối cao', chỉ những tòa nhà của cung điện. Từ Vương triều thứ 12 trở đi từ này xuất hiện trong một câu chúc 'ngôi nhà vĩ đại, hãy sống, thịnh vượng và mạnh khỏe', nhưng vẫn nhằm chỉ cung điện hoàng gia chứ không phải một người.
Ví dụ lâu đời nhất về việc sử dụng pr-ꜥꜣ để chỉ nhà vua là trong một bức thư gửi Amenhotep IV (Akhenaten), cai trị trong khoảng thời gian 1353–1336 trước công nguyên, cụ thể là dòng chữ 'Pharaon, hãy sống, thịnh vượng và mạnh khỏe!. Trong Vương triều thứ 18 (từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIV trước công nguyên), tước hiệu pharaon được sử dụng để gọi nhà vua một cách kính cẩn. Tuy nhiên, khoảng cuối Vương triều thứ 21 (thế kỉ X trước công nguyên), thay vì được dùng độc lập như trước, nó bắt đầu được thêm vào những tước hiệu đứng trước tên của nhà vua, và từ Vương triều thứ 25 (từ thế kỉ VIII đến thế kỉ VII trước công nguyên), nó trở thành tiền tố duy nhất được dùng phổ thông cho hoàng gia.
Từ Vương triều thứ 19 trở đi, pr-ꜥꜣ đứng độc lập cũng được dùng thường xuyên như hm.f, 'Bệ hạ'. Do đó, thuật ngữ này, từ một từ dùng để chỉ một tòa nhà, đã biến thành tên gọi kính cẩn dành cho nhà vua, nhất là ở Vương triều thứ 22 và Vương triều thứ 23.
Chẳng hạn, trường hợp đầu tiên được ghi nhận về việc tước hiệu pharaon gắn liền với tên một nhà vua xảy ra vào năm 17 của Siamun trên một mảnh giấy ghi chép của các thầy tế Karnak. Ở đây, việc một cá nhân được phong làm thầy tế Amun xảy ra chính xác vào triều đại của Pharaon Siamun. Tập quán này tiếp diễn trong triều đại tiếp theo của Psusennes II cũng như các vị vua của Vương triều thứ 21. Trong khi đó việc gọi nhà vua là pr-ꜥꜣ dược tiếp tục trong các văn hóa dân gian Ai Cập.
Đến lúc này, từ pr-ꜥꜣ đã được cấu trúc lại và được phát âm là **, ' trong tiếng Hy Lạp cổ đại và **' trong tiếng Latinh, nguồn gốc của từ tiếng Anh "Pharaoh". Theo thời gian, biến thành từ tiếng Copt prro và sau đó là rro.
"Pharaon" trong tiếng Ả Rập hiện đại ở Ai Cập ngày nay là فرعون phát âm như Firʻawn; trong tiếng Hebrew là פַּרְעֹה phát âm như Parʻō và trong tiếng Ge'ez là Färʻon, tất cả những tên gọi trên đều xuất phát từ per-aa trong tiếng Ai Cập cổ đại.
Biểu trưng
Quyền trượng và gậy
Quyền trượng và gậy là dấu hiệu chung của quyền lực ở Ai Cập cổ đại. Một trong số những quyền trượng hoàng gia đầu tiên được tìm ra trong lăng mộ của Khasekhemwy ở Abydos. Các vị vua cũng được biết đến với việc sử dụng một cây gậy, Pharaon Anedjib được miêu tả trên các bức hình khắc vào đá là đang cầm một cây gậy mks. Chiếc quyền trượng có lịch sử lâu đời nhất có lẽ là heqa, đôi khi được miêu tả là cái móc của người chăn cừu. Những ví dụ sớm nhất của biểu chương này có từ thời sơ triều đại. Một chiếc quyền trượng đã được tìm thấy trong một lăng mộ ở Abydos có từ giai đoạn Naqada.
Một chiếc quyền trượng khác có liên quan đến nhà vua là was, một cây gậy dài có đỉnh là đầu thú. Những bức vẽ miêu tả was có từ Vương triều thứ nhất. Chiếc quyền trượng này xuất hiện trong tay cả các vị vua lẫn các vị thần.
Chiếc đòn đập lúa có liên quan mật thiết tới quyền trượng heqa, nhưng nhà vua cũng được miêu tả chỉ cầm chiếc đòn đập lúa, ví dụ như trên một cán dao có từ thời sơ triều đại, hay trên đầu chùy Narmer.
Uraeus
Bằng chứng lâu đời nhất về việc sử dụng Uraeus — một con rắn hổ mang đang bạnh cổ — thuộc triều đại của Den từ Vương triều thứ nhất. Con rắn hổ mang được cho là sẽ bảo vệ pharaon bằng cách phun lửa vào kẻ địch.
Vương miện được cho là có phép thuật. Brier phỏng đoán rằng vương miện là những vật dụng tôn giáo, nên rất có thể một vị pharaon đã chết sẽ không được đem theo chiếc vương miện vào hầm mộ, mà thay vào đó chúng được truyền lại cho người kế vị.
Tước hiệu
Trong thời kỳ Cổ Vương quốc, các vị vua có thể có tới 3 tước hiệu. Tên Horus là cổ nhất và có từ thời sơ triều đại. Tên Nesw Bity được bổ sung giữa Vương triều thứ nhất. Tên Nebty xuất hiện ở cuối Vương triều thứ nhất. với một số pharaon, chỉ có một hoặc hai trong số đó được biết đến.
Tên Nesw Bity
Tên Nesw Bity bắt nguồn từ triều đại của Den, được viết bằng chữ tượng hình của "cây sậy và con ong", thường được dịch là vua của Thượng và Hạ Ai Cập. Tên news bity mới có thể là tên khai sinh của nhà vua và là tên gọi được ghi chép lại trong sử sách. Tên Horus của một số vị vua thể hiện mối liên hệ với vị thần Horus. Aha nghĩa là "chiến binh Horus", Djer nghĩa là "Horus hùng mạnh", vân vân. Sau đó, các vị vua thể hiện những lý tưởng về vương vị trong tên Horus của mình, Khasekhemwy nghĩa là "Horus: hai quyền năng hòa làm một", Nebra nghĩa là "Horus, chúa tể của Mặt Trời", vân vân.
Tên Nebty
Ví dụ đầu tiên của tên nebty có từ triều đại của vua Aha ở Vương triều thứ nhất. Tên gọi này liên kết nhà vua với các vị nữ thần Nekhbet và Wadjet. Đứng trước tước hiệu này là hình ảnh con kền kền (Nekhbet) và con rắn hổ mang (Wadjet) trên một chiếc rổ.
Tên Horus Vàng
Tên riêng và tên ngai của [[Ramesses III]]
Đứng trước tên Horus vàng là hình ảnh con chim ưng trên một dấu hiệu vàng (nbw). Tước hiệu này có lẽ tượng trưng cho thần tính của nhà vua. Mối liên hệ giữa hai dấu hiệu Horus và vàng có thể dùng để chỉ quan niệm rằng cơ thể các vị thần được làm bằng vàng, cũng như các kim tự tháp và cột đá tượng trưng cho tia nắng mặt trời. Dấu hiệu vàng còn có thể được dùng để chỉ Nubt, thành phố của Set. Điều này ám chỉ việc Horus đánh bại Set.
Tên Riêng và Tên Ngai
Hai tên gọi này được viết trong một hình ô van. Tên ngai thường đứng sau Vua của Thượng và Hạ Ai Cập (nsw bity) hoặc Chúa tể của Hai Vùng đất (nebtawy) và thường bao gồm tên thần Re. Tên riêng thường đứng sau Con trai thần Re (sa-ra) hoặc Chúa tể của Sự hiện diện (neb-kha).
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
**Pharaon** (tiếng Copt: ⲡⲣ̅ⲣⲟ Pǝrro; phiên âm tiếng Việt: _Pharaông_; trong tiếng Ai Cập cổ có nghĩa là "_ngôi nhà vĩ đại_") là tước hiệu chỉ các vị vua của Ai Cập cổ đại từ
**Den**, còn được gọi là **Hor-Den**, **Dewen** và **Udimu** (T.K. 30 TCN—2995 TCN), là tên Horus của một vị vua thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua được
**Lời nguyền của các Pharaon** là lời nguyền cho bất kỳ ai xâm phạm lăng mộ của người Ai Cập cổ đại, nhất là lăng mộ của các vị vua Ai Cập, các Pharaon, thì
**Horus Bird**, còn được gọi là **Horus-Ba**, có khả năng là một vị pharaon có thời gian cai trị rất ngắn (thế kỷ 28 TCN). Các thông tin hiện tại chưa cho ta biết rõ
**Teti**, còn được biết đến với tên gọi ít phổ biến hơn là **Othoes**, được đọc là **Tata** và phát âm là **Atat** hay **Athath**, là vị pharaon đầu tiên thuộc vương triều thứ Sáu
**Stork** (tạm dịch **Cò**), là một nhà cai trị của Ai Cập cổ đại (pharaon) thời kì Tiền triều đại của Ai Cập. Hầu hết các học giả hiện đại đều nghi ngờ về sự
**Usermaatre** **Amenemope** (thế kỷ 11 — 992 TCN) là một vị vua của Vương triều thứ 21 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Amenemope được nghĩ là một người con trai của Pharaon Psusennes
**Cú đại bàng pharaon** (tên khoa học **_Bubo ascalaphus_**) là một loài chim trong họ Họ Cú mèo. Loài này được tìm thấy ở khu vực Bắc Phi và bán đảo Ả rập. ## Miêu
**Ba**, còn được biết đến là **Horus Ba** (2650 TCN—?), là tên serekh của một vị vua tiền triều đại của Ai Cập hoặc Ai Cập cổ đại, ông có thể đã trị vì vào
**Tiu**, còn được biết đến với tên gọi **Teyew**, được đề cập tới trên Phiến đá Palermo như là một vị vua Ai Cập thuộc giai đoạn Tiền Vương triều, ông trị vì ở Hạ
**Sheneh** là một vị vua cai trị một vài vùng của Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai, có thể là vào thế kỷ thứ XVII TCN, và dường như thuộc về vương
**Weneg** (hoặc **Uneg**), còn được gọi là **Weneg-Nebty**, là tên gọi khi lên ngôi của một vị vua Ai Cập, ông là một vị vua của Vương triều thứ Hai. Thời gian cai trị của
**Bull** (tạm dịch là **Bò Đực**) là tên tạm thời của một người cai trị nhỏ thời tiền sử, từ khoảng năm 3250 trước công nguyên. Sự tồn tại của ông đang gây tranh cãi.
**Hatshepsut** hay **Hatchepsut** (), (khoảng 1508-1458 TCN) là con gái của pharaon Thutmosis I đồng thời vừa là chị cùng cha khác mẹ vừa là vợ của pharaon Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong
**Ramesses II** (hay **Ramesses đại đế**, **Ramses II**, **Rameses II**, ông cũng được biết đến với tên **Ozymandias** theo tiếng Hy Lạp, từ sự chuyển ký tự từ tiếng Hy Lạp sang một phần tên
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
**Pepi I Meryre** (hay **Pepy I**) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ Sáu của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông kéo dài hơn 40 năm bắt đầu từ giai đoạn khoảng
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
**Menes** (? — ~ 3100 TCN; ; , có khả năng phát âm là *; ) là một vị pharaoh thuộc Thời kỳ Sơ triều đại của Ai Cập cổ đại và theo truyền thuyết
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Unas** hoặc **Wenis**, hay còn được phát âm là **Unis** (cách viết theo tiếng Hy Lạp của **Oenas** hoặc **Onnos**), là một pharaon Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ chín và cũng
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
**Amenhotep II** (hay **Amenophis II**, có nghĩa là "Thần Amun hài lòng") là vị pharaon thứ bảy của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Amenhotep thừa hưởng vương quốc rộng lớn từ vua cha
**Amenhotep III** (tên Hy Lạp hóa là **Amenophis III**; tên tiếng Ai Cập: **Amāna-Ḥātpa**; dịch nghĩa: _Amun đẹp lòng_), còn gọi là Amenhotep Vĩ Đại là vị pharaon thứ 9 thuộc Vương triều thứ 18
**Maaibre Sheshi** (cũng là **Sheshy**) là một vị vua của các vùng đất thuộc Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Vương triều, vị trí trong biên niên sử, khoảng thời gian và
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
**Djedkare Isesi** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Tancherês**), là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ tám và cũng là vị vua áp chót của vương
**Seqenenre Tao** (hay **Seqenera Djehuty-aa**, **Sekenenra Taa** hoặc **The Brave**) là vị pharaon cai trị cuối cùng của vương quốc địa phương thuộc Vương quốc Thebes, Ai Cập, trong Vương triều XVII trong Thời kỳ
**Ramesses I**, hay **Ramses I** (còn có tên là **Pramesse** trước khi lên ngôi), là vị pharaon sáng lập ra Vương triều thứ 19 của Ai Cập cổ đại; sử gọi là triều Tiền Ramessid.
**Hor-Aha** (3100 TCN—3037 TCN; hoặc **Aha** hay **Horus Aha**) được coi là vị pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ nhất của Ai Cập cổ đại. Ông sống vào khoảng thế kỷ 31 TCN và
**Usermaatre Meryamun Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses III**, là pharaon thứ hai thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Trong triều đại của mình, ông xem Ramesses
**Merneith** (2925 TCN—?; còn được biết dưới các cái tên **Meritnit**, **Meryet-Nit** hoặc **Meryt-Neith**) là một Vương hậu nhiếp chính của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ nhất. Bà có thể đã tự
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Pepi II** (còn là **Pepy II**; 2284 TCN – sau năm 2247 TCN, có thể hoặc là khoảng năm 2216 hoặc khoảng năm 2184 TCN Những dòng chữ khắc trên các khối đá cho biết
**Shepseskaf** là vị pharaon thứ sáu và cũng là vị vua cuối cùng của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ Vương quốc của Ai Cập. Ông đã cai trị một triều đại kéo
nhỏ|Serekh, tên của [[Djet, bức chửa bằng đá này được trưng bày ở Bảo tàng Louvre, Pháp|264x264px]] **Tên hiệu hoàng gia của một pharaon Ai Cập cổ đại** là một hoặc nhiều loại tên được
**Psusennes I**, **Pasibkhanu** hoặc **Hor-Pasebakhaenniut I** là vị quân vương thứ ba của Vương triều thứ 21 nước Ai Cập, ông trị vì từ năm 1047 cho đến năm 1001 TCN. Tên gọi Psusennes là
**Horemheb** (đôi khi còn gọi là _Horemhab_ hoặc _Haremhab_) là vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 18 từ khoảng năm 1319 cho đến năm 1292 trước Công nguyên, hoặc là từ năm 1306
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Sobekneferu**, hay **Nefrusobek** là con gái của pharaon Amenemhat III và em gái pharaon Amenemhat IV. Sau khi Amenemhat IV băng hà thì Sobekneferu lên ngôi pharaon và trị vì Vương triều thứ 12 của
**Djedhor**, được biết đến nhiều hơn với tên gọi là **Teos** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Τέως) hoặc **Tachos** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Τάχως), là một pharaon thuộc vương triều thứ 30 của Ai
**Bakare**, hay **Bicheris** hoặc **Bikheris**, thường gọi là **Baka**, là một vị hoàng tử của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ tư. Ông là con trai của Djedefre (cai trị:2566-2558 TCN) và là
**Ankhkaenre Psammetichus III** hay **Psametik III** (hoặc **Psamtek** hay **Psamtik** hay **Psemmtek III**) là con trai của pharaon Amasis II của Vương triều thứ 26 Ai Cập cổ đại và hoàng hậu Tentheta. Ông lên
**Usermaatre Sekheperenre Ramesses**, thường được gọi ngắn gọn là **Ramesses V**, là pharaon thứ tư thuộc Vương triều thứ 20 trong thời kỳ Ai Cập cổ đại. Ramesses V là người con duy nhất được
**Ahmose I**, hay **Ahmosis I** hoặc **Amasis I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại và là người sáng lập ra Vương triều thứ 18. Ông là thành viên của hoàng gia Thebes, con
**Nubkheperre Intef** (hoặc **Antef**, **Inyotef**), còn được gọi là **Intef V**, **Intef VI** hoặc **Intef VII**, là một vị vua thuộc Vương triều thứ 17 trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập,
:_Xem Amenemhat, đối với những người có cùng tên gọi này._ **Seankhibre Ameny Antef Amenemhet VI** là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn đầu vương triều thứ 13, ông đã cai trị vào