✨Phạm Đăng Hưng

Phạm Đăng Hưng

Phạm Đăng Hưng (1764–1825), tự Hiệt Củ (có sách ghi là Khiết Củ), là đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Đại thần triều Nguyễn

Phạm Đăng Hưng làm quan cho triều Nguyễn trải qua nhiều chức quan và tước phẩm khác nhau, có lúc bị giáng chức. Ngoài việc là một đại thần trong lục bộ, ông còn là cha vợ của vua Thiệu Trị và cha chồng của công chúa Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh.

  • Chức quan cao nhất từng nắm giữ khi còn đương chức: Thượng thư Bộ Lễ (hàm chánh nhị phẩm).
  • Tước cao nhất được phong: Đức Quốc công.

Tiểu sử

phải|Đức Quốc Công Từ trong khu di tích Lăng Hoàng Gia. Phạm Đăng Hưng (范登興) là người ở Giồng Sơn Quy, xưa thuộc huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định; về sau đổi thuộc tỉnh Gò Công; nay thuộc ấp Lăng Hoàng Gia, phường Long Hưng, thành phố Gò Công, tỉnh Tiền Giang).

Ông là con của ông Phạm Đăng Long và bà Phan Thị Tánh. Năm Bính Thìn (1796), tại Gia Định, ông thi đỗ tam trường, chuẩn bị thi tứ trường thì bị bệnh nên phải trở về quê . Nhưng vì ông nổi tiếng là người có văn tài và hiền đức nên được bổ làm "Lễ sinh nội phủ" thời chúa Nguyễn Phúc Ánh.

Sau ông được thăng làm Tham luận ở Vệ Phấn Võ, đem quân ra đánh nhau với quân Tây Sơn ở Phú Yên. Năm Kỷ Mùi (1799), Phạm Đăng Hưng làm Tham tri bộ Lại, nhưng thường theo quân đội làm Tham mưu. Đến khi chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long (1802), ông lần lượt trải chức: Tham tri bộ Lại kiêm Chưởng trưởng đà sự (trông coi đê điều, 1805), Thanh tra Trường thi Hương ở Kinh Bắc (1807), Thượng thư bộ Lễ (1813) kiêm quản Khâm thiên giám (1815).

Năm 1816, ông xin vua lập Xã thương (kho chứa lúa ở các xã) để chẩn cấp cho dân nghèo khi mất mùa, nhưng không được nghe.

Tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long lâm bệnh nặng. ông phụng thảo di chiếu, rồi cùng với Lê Văn Duyệt đồng lo việc tôn phò vua mới.

Năm 1821 đời vua Minh Mạng, sung ông làm Quốc sử quán Phó tổng tài. Cùng năm này, ông bị giáng xuống 2 cấp vì việc mạo tặng bằng sắc ở bộ Lễ. Sau lại được bổ làm Học sĩ Viện Hàn lâm, rồi thăng làm Tả tham tri bộ Lại, coi sóc luôn Viện Hàn lâm. Ít lâu sau nữa, ông lại được phục hồi chức cũ ở Quốc sử quán, kiêm Ấn vụ bộ Lại, sung Khâm tu ngọc phổ toản tu (tức coi việc biên soạn gia phả cho nhà vua).

Năm Giáp Thân (1824), ông được phục chức Thượng thư bộ Lễ. Tháng 4 năm Ất Dậu (1825), khi nhà vua đi tuần thú dinh Quảng Nam, ông được cử chức Chưởng quản Kinh thành Huế. Nhưng đến ngày 14 tháng 6 năm này (tức 29 tháng 7 năm 1825) thì ông mất vì bệnh tại Huế, thọ 60 tuổi.

Thương tiếc, vua Minh Mạng thăng Phạm Đăng Hưng hàm Vinh Lộc đại phu, Trụ quốc Hiệp biện đại học sĩ, thụy Trung Nhã.

Đến năm 1849 đời vua Tự Đức (vua gọi ông Hưng là ông ngoại), phong tặng ông là Đặc tấn Vinh lộc đại phu, Thái bảo, Cần chánh điện đại học sĩ, tước Đức Quốc công, được thờ ở miếu Trung hưng công thần và được dự tên trong miếu Hiền lương. Vợ ông (họ Phạm Văn) được phong là Đức quốc nhất phẩm phu nhân, thụy Đoàn từ. Đồng thời, nhà vua cho dựng từ đường thờ vợ chồng ông ở Kim Long (nay thuộc thành phố Huế) và gia tặng cho các đời trước.

Tương truyền, Phạm Đăng Hưng còn được người đương thời gọi là “ông Ba Bị” vì "đi đâu ông cũng mang theo ba bị ngũ cốc để phân phát cho dân nghèo"

Phạm Đăng Hưng cùng với Tôn Thất Địch nhận lệnh vua biên soạn lại: Ngọc phả (Gia phả nhà Nguyễn) và phác thảo bộ Đại Nam thực lục.

Câu chuyện về tấm văn bia

Năm 1857, Vua Tự Đức xuống chỉ cho Hiệp biện Đại học sĩ, Lễ Bộ Thượng thư Phan Thanh Giản và Hình Bộ Thượng Thư Trương Quốc Dụng soạn thảo một bài văn bia ghi công Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng, khắc vào bia đá rồi cho chờ bằng ghe về Gò Công để dựng ở mộ ông. Theo một số sử liệu, trên đường di chuyển vào Nam, tấm bia đã lọt vào tay quân Pháp sau một cuộc đụng độ giữa hai bên. Một chuyện kể khác lưu truyền trong tộc họ Phạm Đăng cho rằng khi về gần đến địa phận Cần Giờ, do sóng to gió lớn, chiếc thuyền chở văn bia bị lật chìm, quân lính không có khả năng vớt lên, sau đó hải quân Pháp đã làm công việc này. Dù gì thi cuối cùng tấm văn bia cũng đã nằm trong tay thực dân Pháp. Ngày 07 tháng 12 năm 1860, trong một cuộc đụng độ giữa lính Pháp với nghĩa quân Việt Nam gần chùa Khải Tường (Sài Gòn), một sĩ quan cao cấp của Pháp là đại úy Barbé bị tử trận và bị quân ta cắt đầu. Các đồng đội của viên sĩ quan này có tấm văn bia trong tay, đã tiện thể biến nó thành mộ bia cho đồng đội họ. Họ khắc chồng lên những dòng chữ Hán các hàng chữ Pháp tạm dịch như sau:

Đây là nơi an nghỉ của Barbé, Đại úy thủy quân lục chiến tử trận trong một cuộc phục kích ngày 07.12.1860

Kỷ niệm của các thân hữu.

Về sau, con đường chạy qua nơi Barbé tử trận được đặt tên là đường Barbé, ngồi chùa Khải Tường nằm ở vị trí bảo tàng chứng tích chiến tranh ngày nay (đường Võ Văn Tần) được người dân quen gọi là chùa Barbé. Cũng theo một số sử liệu, khoảng năm 1867, thực dân Pháp đã cho san phẳng ngôi chùa, có lẽ để xóa sạch vết tích kỷ niệm vệ một trong những tổn thất lớn của họ trong quá trình thuộc địa hóa vùng đất Nam Kỳ. Riêng tấm văn bia có kích thước 220x147cm đã được cắm trên mộ của Barbé tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (đường Mạc Đĩnh Chi) từ ấy cho đến ngày giải tỏa nghĩa trang vào năm 1984.

Việc bị Pháp lấy mất tấm văn bia là một tổn thất tinh thần to lớn đối với bà Từ Dụ Thái Hậu và cả hoàng tộc triều Nguyễn lúc bấy giờ. Tuy nhiên theo quy tắc đã định, vua Tự Đức không thể ban tấm văn bia đó lần thứ hai, và việc này đã ám ảnh bà Từ Dụ suốt hơn 30 năm trời. Năm Thành Thái thứ 3 (1891), với tư cách Thái Thái hoàng thái hậu, bà "thỉnh cầu" Tôn Nhơn phủ và triều đình cho khắc một tấm văn bia thứ hai với nội dung y như tấm bia trước, chỉ khác là kích thước nhỏ hơn. Bia đặt ở trước cổng Đức Quốc Công từ (nhà thờ họ Phạm Đăng) tại Kim Long (Huế), trong một bi đình với ba bậc đá thanh cao khoảng 79 cm. Bên phải bi đình, dưới mặt đất, có một bia nhỏ ghi dòng chữ "khuynh cái hạ mã" (đến đây phải thì "nghiêng lọng xuống ngựa" để tỏ lòng thành kính), hiện nay vẫn còn. Năm 1955, Huế bị lụt lớn, do sức nước quá mạnh, bi đình đổ, phần lớn cột kèo trôi theo dòng nước, riêng văn bia vẫn không hề hấn gì. Ngày nay, văn bia đã được tộc họ Phạm Đăng đặt trong sân nhà thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng ở Huế.

Hành trình xin lại tấm văn bia

Khoảng đầu thập niên 90, nhà văn Lê Nguyễn có đăng một bài viết trên tạp chí Kiến Thức Ngày nay nhắc về lịch sử tấm văn bia và có ghi rằng sau khi giải tỏa nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi để biến nó thành công viên Lê Văn Tám, không rõ số phận của văn bia ra sao. Bài viết chẳng phải một phát hiện gì (theo lời của chính nhà văn), vì câu chuyện đã được nhắc tới hồi trước 1975, nhà văn chỉ bổ sung một vài kiến thức lịch sử có liên quan. Song trong con mắt của một người khác thì nó lại quá mới mẻ và bất ngờ. Người đó là ông Phạm Đăng Phùng (P.Đ.P), cháu trực hệ 9 đời của cụ Phạm Đăng Hưng. Đọc bài xong, ông P.Đ.P đã liên hệ với nhà văn Lê Nguyễn và bắt đầu cuộc hành trìn tìm lại tấm văn bia để xin đưa nó về nơi an nghỉ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng. Cũng từ đó, nhà văn Lê Nguyễn và ông P.Đ.P đã trở thành đôi bạn vong niên, làm chứng nhận chứng cho những nỗ lực không biết mệt mỏi của một người con, người cháu hiếu đễ thuộc dòng tộc họ Phạm Đăng. Cuối cùng thì công sức đó đã được đền đáp, giữa năm 1998, lãnh đạo Ủy ban Nhân dân và Sở Văn hóa Thông tin thành phố Hồ Chí Minh quyết định bàn giao tấm văn bia trên, đang do Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh quản lý, cho Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Tiền Giang và nơi đây đã tiến hành thủ tục để đưa về Gò Công, đặt tại lăng mộ của chủ nó là Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng. Việc bàn giao được tiến hành trung tuần tháng 07.1998 giữa các đơn vị chức năng của hai địa phương.

Thế là sau đúng 140 năm lưu lạc, văn bia đã chính thức ghi nhận tiểu sử và công lao của một đại thần triều Nguyễn đã trở về đúng nơi mà nó phải về, dù cho có phải mang trên mình "vết thương" là những dòng chữ ngoại lai liên quan đến cái chết của một sĩ quan thực dân Pháp. Đó là một trong những giai thoại độc đáo trong lịch sử đầy biến động của Việt Nam vào thể kỷ 19.

Lăng Hoàng Gia

phải|Mộ Phạm Đăng Hưng trong khu di tích Lăng Hoàng Gia ở thị xã Gò Công

Dòng họ Phạm Đăng đã sống lâu đời ở đất Gò Công. Ông Phạm Đăng Khoa là người khai hoang lập nghiệp ở xứ này. Phạm Đăng Hưng là hậu duệ đời thứ năm. Vì là ông ngoại vua Tự Đức, cha của Hoàng thái Hậu Từ Dụ, tước Đức Quốc công, nên sau khi Phạm Đăng Hưng mất, triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây nhà thờ và lăng mộ dòng họ Phạm Đăng.

Tên gọi "lăng Hoàng gia" không biết xuất hiện từ thời điểm nào, vì theo quy định của triều đình, danh từ Hoàng gia chỉ gắn với nội tộc, không được gọi với ngoại tộc. Nhưng có lẽ, do vị thế của Phạm Đăng Hưng nên người Nam bộ mới gọi khu lăng của ông là "lăng Hoàng gia". Khu di tích có diện tích hàng ngàn mét vuông với phức hợp các công trình kiến trúc: đền thờ, sân vườn, đường nội khu, hồ sen, giếng nước, lăng mộ... xây dựng vào nhiều thời điểm khác nhau từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

Đền thờ Phạm Đăng Hưng được vua Thành Thái xây dựng vào năm 1888, trùng tu tôn tạo vào năm 1921 dưới thời vua Khải Định với những đặc điểm kiến trúc và trang trí nội thất cũng như bài trí đồ tế tự mang tính cung đình. Đây là một công trình kiến trúc hiếm có ở Nam bộ với các đồ án hoa văn trang trí rồng phụng, hoa lá hóa rồng, bát bảo, tứ quý..., có kỹ thuật chạm trổ tinh xảo, sơn son thiếp vàng mang phong cách hoàng gia.

Tiêu biểu trong quần thể di tích là kiến trúc lăng mộ Phạm Đăng Hưng. Dấu tích còn lại đến nay cho thấy kiến trúc khu lăng mộ được xây bằng hợp chất với nhiều lớp thời gian khác nhau, trong đó đáng chú ý là những viên gạch thẻ xây ở khu vực giếng nước có các ký hiệu của các xưởng gạch triều đình giai đoạn đầu thế kỷ 19 như Đinh nhị, Giáp tam...

Hiện tại kiến trúc lăng Phạm Đăng Hưng nhìn về hướng bắc, mặt bằng kiến trúc có dạng hình thuẫn, cao dần từ ngoài sân tế vào trong bình phong hậu, kích thước tổng thể rộng ngang 19 m, dài sâu 26 m, cao nhất (bình phong hậu) so với cốt nền là 4 m. Kết cấu kiến trúc từ ngoài vào trong gồm: trụ biểu hai bên, sân tế, nhà bia tả hữu, khu cửa lăng, nhang án, bia mộ, nấm mộ, bình phong hậu Toàn bộ khu kiến trúc khu lăng được bao quanh bởi hai lớp tường thành kết hợp với các trụ biểu. Nhiều đồ án hoa văn bằng chất liệu hợp chất đề cá hóa rồng, ngũ quả, lá nho, đèn lồng, đài hoa… mang những đặc điểm điển hình trong trang trí mỹ thuật thời Nguyễn giai đoạn đầu thế kỷ 20 chịu ảnh hưởng của phương Tây đã từng gặp trên lăng Khải Định ở Huế.

Điều đặc biệt là nấm mộ Thượng thư có dạng gò cao, hình bát giác, như một lá sen lớn úp xuống. Tương truyền khi an táng, ông được an vị trong tư thế ngồi. Trước nấm mộ dựng một tấm bia được lập vào năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), "do các con trai là Tá và Tuấn cùng dâng kính thờ tự".

Đặc biệt nơi đây có đến hai nhà bia ghi lại công trạng của Phạm Đăng Hưng, với lý do sau:

  • Nhà Bia phía bên phải được làm bằng đá cẩm thạch trắng (đá Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng) có khắc bi văn do Phan Thanh Giản soạn năm 1858. Nhưng khi di chuyển từ Huế vào đến Sài Gòn thì bị quân Pháp lấy làm mộ bia cho Đại úy Barbé vừa bị nghĩa quân Trương Định chém chết 1860. Năm 1998, tấm bia này đã được chuyển về đây. Tính ra tấm bia đá mang tên hai người chết một Pháp một Việt này đã luân lạc đúng 140 năm (1858-1998).
  • Nhà bia phía bên trái dựng tấm bia bằng đá hoa cương (đá Ganis) do vua Thành Thái sai làm năm 1899, sau khi tấm bia đầu đã bị quân Pháp chiếm đoạt. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia trước.

Năm 1992, Lăng Hoàng Gia được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích cấp Quốc gia

Gia đình

  • Vợ Phạm Thị Du (1768-1821) Chánh Thất, sinh được 2 trai, 1 gái: Phạm Đăng Tuấn (1784-1839)

Phạm Đăng Tá (1807-1836)

Phạm Thị Hằng (1810-1901) tức Thái Hoàng Thái Hậu Từ Dụ

  • Vợ Nguyễn Thị Hữu, kế thất, sinh được 1 gái: Phạm Thị Thuận (1794-1870)
  • Vợ Trần Thị Đình, kế thất 3, sinh được 2 trai, 1 gái: Phạm Đăng Chánh

Phạm Đăng Đáng

Phạm Thị Thiều

  • Vợ Trần Thị Hữu, kế thất 4, sinh được 2 trai, 1 gái: Phạm Đăng Thiệu

Phạm Đăng Thuật, phò mã, chồng của công chúa Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (con gái thứ 18 của Minh Mạng)

Phạm Thị Nga

Tôn vinh

Trước năm 1975, tại thị xã Gò Công thuộc tỉnh Gò Công cũ (nay là tỉnh Tiền Giang), tên ông được đặt cho một đại lộ lớn ở đối diện chợ Gò Công cũ: đại lộ Phạm Đăng Hưng. Sau năm 1975, đại lộ này đã bị đổi tên thành đường Trương Định cho đến ngày nay. Tuy nhiên, hiện nay tại đây cũng có đường Phạm Đăng Hưng là đường huyện 97 gần UBND Phường Long Hưng nối từ đường Từ Dũ (con gái của ông) đến đường Mạc Văn Thành.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phạm Đăng Hưng** (1764–1825), tự _Hiệt Củ (có sách ghi là Khiết Củ)_, là đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Đại thần triều Nguyễn Phạm Đăng Hưng làm quan cho triều
Sáng 8/7, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường Sơn Qui, tỉnh Đồng Tháp long trọng tổ chức Lễ giỗ 200 năm của Đức Quốc công
**Phạm Đăng Trí** (1920 - 1987) là một họa sĩ Việt Nam. ## Lịch sử Ông Phạm Đăng Trí (Hán Nôm: 范登智) sinh ngày 24 tháng 08 năm 1920 theo gia phả hoặc 16 tháng
**Phạm Quốc Hưng** (sinh năm 1973) là thẩm phán cao cấp người Việt Nam. Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình, Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao. ## Tiểu sử
**Phạm Quốc Hùng** là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ (Việt Nam) đến năm 2006. Ông còn là nhà thơ. ## Tiểu sử
**Phạm Mạnh Hùng** (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1958) là chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12, thuộc đoàn đại biểu Thái Nguyên, nguyên
**Phạm Đăng Thuật** (? - 1861), ông là dòng dõi của họ Phạm Đăng ở gò Sơn Quy, Mỹ Tho, Tiền Giang. Ông là con trai thứ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng và
**Phạm Xuân Hùng** (sinh ngày 10 tháng 01 năm 1952) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung
**Phạm Huy Hùng** sinh năm 1954, quê quán ở Hà Nội, là Tiến sĩ Kinh tế - Đại học Tài chính Kế toán (1997), là đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá 13. Khi trúng
**Phạm Phi Hùng** (15 tháng 10 năm 1933 – 10 tháng 10 năm 2021) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ
**Phạm Ngọc Hùng** (sinh ngày 3 tháng 9 năm 1959) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Bí thư Đảng ủy, nguyên
**Phạm Phước Hưng** (16 tháng 6 năm 1988) là một vận động viên thể dụng dụng cụ hàng đầu Việt Nam. Tính đến thời điểm năm 2018, anh đã có hơn 60 huy chương vàng
**Phạm Công Hưng** (范公興) hay còn gọi là **Phạm Văn Hưng** (范文興), một danh tướng, trụ cột của nhà Tây Sơn. Phạm Công Hưng là anh em cùng họ với Thái bảo Phạm Văn Tham,
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Phạm Kim Hưng** (tên tiếng Anh là **Hung Pham** hay **Hung Kim Pham**) sinh ngày 2 tháng 10 năm 1963 tại Sài Gòn, là một chuyên gia điện toán và chính khách tại tiểu bang
**PGS-TS Phạm Ngọc Hùng** là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. ## Thân thế và sự nghiệp Ông sinh ngày 5 tháng 4 năm 1948, quê
**Nguyễn Đăng Hưng** là một nhà cơ học người Việt tại đại học Liège, Vương quốc Bỉ. Lĩnh vực của ông là Cơ học vật rắn biến dạng chuyên ngành Cơ học tính toán, ông
**Phạm Văn Hưng** (sinh năm 1958) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng ## Thân thế binh nghiệp Năm
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Phạm Hùng** (11 tháng 6 năm 1912 10 tháng 3 năm 1988), tên khai sinh là **Phạm Văn Thiện**, còn được gọi với bí danh là **Hai Hùng**, là một chính khách Việt Nam. Từng
**Phạm Duy Thuận**, thường được biết đến với nghệ danh **Jun Phạm** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1989), là một nam ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình kiêm nhà văn
**Albert Phạm Ngọc Thảo** (1922–1965) là một cán bộ tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hoạt động dưới vỏ bọc là một sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam
**Phạm Huy Thông** (1916–1988) là nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Huy Thông** sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội trong một
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
Bác sĩ Phạm Xuân Hùng với hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành thẩm mỹ, chấn thương chỉnh hình đã dùng đôi tay tận tụy và trái tim yêu nghề để “níu giữ tuổi thanh
**Trường Đại học Sư phạm Hà Nội** (tiếng Anh: _Hanoi National University of Education_ - viết tắt: **ĐHSPHN** hay **HNUE**) là một trường đại học công lập tại Việt Nam. Được thành lập vào năm
**Phạm Quý Ngọ** (24 tháng 12 năm 1954 – 18 tháng 2 năm 2014) là một Thượng tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng là Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam nhiệm
**Phạm Chí Dũng** (sinh năm 1966) là một nhà báo, nhà văn, Tiến sĩ Kinh tế, nhà hoạt động chính trị bất đồng chính kiến người Việt Nam. Ông hiện là chủ tịch Hội Nhà
**Trường Đại học Sư phạm** (tiếng Anh: _Thai Nguyen University of Education_) là một trường đại học thành viên của Đại học Thái Nguyên. Trường có vai trò là trung tâm đào tạo đại học,
**Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch** là trường đại học chuyên ngành y khoa tại Việt Nam. Trường được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập theo Quyết định số 24/QĐ-TTg
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô** (), hay Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, gọi tắt **Trung ương Đảng Liên Xô** () là cơ quan quyền lực cao
**Cao Hùng** hay **Kaohsiung** (chữ Hoa phồn thể:高雄市, bính âm thông dụng: Gaosyóng, bính âm Hán ngữ: Gāoxióng, POJ: Ko-hiông; tọa độ 22°38'N, 120°16'E) là một thành phố nằm tại miền Nam Đài Loan. Đây
**Cao Đăng Chiếm** (1921-2007) là một chính khách và là sĩ quan an ninh cao cấp Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Thứ trưởng
**Đảng Vì Dân Việt Nam** (**VPP**), còn được gọi là "Đảng Vì Dân", là một đảng chính trị ở Việt Nam, được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2006. Các chiến dịch của
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Phạm Bạch Hổ** (; 910 - ?? ) tên xưng **Phạm Phòng Át** (), là võ tướng các triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**_Tội phạm nhân bản 2049_** (tên gốc tiếng Anh: **_Blade Runner 2049_**) là một bộ phim điện ảnh đề tài khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2017 do Denis Villeneuve đạo diễn và Hampton
**Phạm Ngũ Lão** (chữ Hán: 范五老; 1255 – 1320) là danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần
**Phạm Hưng** (1927–2018), tên thật: **Bùi Văn Tường**, là một luật sư và thẩm phán người Việt Nam. Ông từng là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam từ tháng 7 năm
nhỏ|240x240px|[[Linh vật siêu anh hùng cho Connecticut ComiCONN.]] **Siêu anh hùng** (tiếng Anh: **superhero**) **nữ siêu anh hùng** (tiếng Anh: **superheroine**) là một nhân vật sở hữu _siêu năng lực_, những khả năng vượt xa
Tộc phả là một kho tàng chứa đựng mối quan hệ tình cảm sâu đậm của những người con, người cháu có cùng chung một huyết thống. Là tình cảm thiêng liêng rất tự nhiên,
**Phạm Tuân** (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947) là phi công, phi hành gia người Việt Nam, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là người Việt Nam và châu Á đầu
**Phạm Đình Kính** (chữ Hán: 范廷鏡; 1669-1737), tên khai sinh là **Phạm Kim Kính**, là một vị quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Đình Kính là người tài cao, đức
nhỏ|phải|Một Bằng khen chứng nhận danh hiệu cho một Bà mẹ Việt Nam Anh hùng của Chủ tịch nước **Bà mẹ Việt Nam anh hùng** là danh hiệu vinh dự được Nhà nước Việt Nam
**Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên** (tiếng Anh: _Hung Yen University of Technology and Education_) là một trong sáu Đại học Sư phạm Kỹ thuật của cả nước - đào tạo kỹ
**Nguyễn Mạnh Hùng** (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1962) là một doanh nhân và chính trị gia, Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hiện là Bộ trưởng Bộ Khoa học và
**Phạm Công Trứ** (chữ Hán: 范公著, 1600 - 28 tháng 10 năm 1675) là tể tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Công Trứ người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá,
**Hưng Yên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|Một góc thành phố Hưng Yên Thành phố Hưng Yên nằm ở phía nam của tỉnh Hưng Yên,