✨Omaha (lớp tàu tuần dương)

Omaha (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Omaha_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ. Là một thiết kế trung gian ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, chúng là lớp tàu tuần dương cũ nhất đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Không có chiếc nào bị mất trong cuộc xung đột sau này, chủ yếu là do chúng chỉ được giao phó những nhiệm vụ thứ yếu trong chiến tranh, vì rõ ràng là chúng đã lạc hậu vào lúc đó. Tất cả đều bị tháo dỡ sau khi chiến tranh kết thúc.

Bối cảnh

nhỏ|trái|Sơ đồ nhận diện lớp Omaha vào năm 1942 Các cuộc cơ động tiến hành vào tháng 1 năm 1915 bộc lộ rõ ràng việc Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ thiếu sót những tàu tuần dương nhanh vốn cần đến để cung cấp thông tin về vị trí của đối phương cũng như ngăn chặn đối phương do thám vị trí của hạm đội nhà, cùng để bảo vệ các lực lượng bạn. Được chế tạo cho nhiệm vụ trinh sát cho hạm đội thiết giáp hạm, chúng cần có tốc độ cao để phối hợp hoạt động với tàu khu trục, và cỡ pháo để đẩy lui mọi tàu khu trục mà đối phương tung ra chống lại chúng. Với trọng lượng choán nước 7.050 tấn, chúng có chiều dài .

Lớp Omaha được thiết kế đặc biệt để đối phó với lớp tàu tuần dương Centaur của Anh Quốc. Cho dù theo quan điểm hiện đại, một mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc xem ra có vẻ nghi ngờ, các nhà chiến lược Hải quân Mỹ trong thời gian này, và thậm chí cho đến giữa những năm 1930, vẫn xem Anh Quốc như là một cường quốc hải quân tại Đại Tây Dương, và khả năng đối đầu quân sự giữa hai nước vẫn đủ hợp lý đáng để có những giải pháp xử lý thích hợp.

Thiết kế

Do thiết kế cũ kỹ, lớp Omaha có bốn ống khói, một kiểu dáng tương tự như những tàu khu trục bốn ống khói. Dàn vũ khí của chúng trình bày sự thay đổi chậm chạp từ các ụ tháp pháo sang vũ khí bố trí trên tháp pháo. Chúng có dàn hoả lực chính gồm 12 khẩu hải pháo 152 mm (6 inch)/53 caliber, trong đó bốn khẩu được bố trí trên các tháp pháo nòng đôi, một phía trước và một phía sau, trong khi tám khẩu còn lại bố trí trong các ụ tháp pháo, bốn khẩu mỗi bên mạn. Được hạ thủy vào năm 1920, USS Omaha (ký hiệu C-4, là sau đó CL-4) có trọng lượng choán nước vừa trên 7.100 tấn. Những con tàu tuần dương này hình thành với một kiểu dáng đặc trưng cổ điển do các khẩu pháo trong tháp pháo ụ nòng đôi thời Thế Chiến I, và nằm trong số các tàu tuần dương bắn qua mạn cuối cùng được thiết kế trên thế giới.

Như là hậu quả của những thay đổi về thiết kế của con tàu đang khi chế tạo, những chiếc trong lớp Omaha được hạ thủy trong những năm 1920 bị quá tải đến mức ngay từ đầu, chúng tỏ ra quá chật chội. Những con tàu không được cách nhiệt đúng mức, quá nóng tại miền nhiệt đới và quá lạnh ở phía Bắc. Việc phải hy sinh để giảm trọng lượng nhằm đổi lấy tốc độ đã đưa đến việc làm tổn thương đáng kể khả năng sống sót của con tàu. Trong khi được mô tả như là những con tàu đi biển tốt, độ nổi thấp thường xuyên đưa đến việc ngập nước trước mũi và các ngăn ngư lôi. Lườn tàu được thiết kế nhẹ bị rò rỉ nước, nên việc di chuyển tốc độ cao thường đưa đến việc ô nhiễm nước biển vào các thùng dầu.

Bất kể những khuyết điểm vừa nêu, Hải quân Mỹ đặt một niềm tự hào lớn đối với lớp Omaha; khi nó có được sự bảo vệ dưới nước rất tốt đối với mối đe dọa của ngư lôi. Nó được thiết kế với sự cải tiến trong việc phân ngăn, trong khi các hầm đạn của chúng lần đầu tiên được đặt trên trục giữa bên dưới mực nước.

Lịch sử hoạt động

Nguyên được thiết kế để phục vụ như tàu tuần tiễu, lớp Omaha phục vụ trong suốt giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến như soái hạm của hải đội khu trục, giúp chúng kháng cự lại sự tấn công của tàu khu trục đối phương. Việc trinh sát chiến thuật trở thành lĩnh vực của máy bay trên tàu tuần dương, trong khi vai trò trinh sát tầm xa được đảm trách bởi các tàu tuần dương hạng nặng sinh ra từ Hiệp ước Hải quân Washington năm 1923. Vì vậy, lớp Omaha chưa từng bao giờ thực hiện chức năng như được thiết kế. Chúng được giao vai trò hộ tống hạm đội, nơi mà tốc độ và hỏa lực mạnh được đánh giá cao nhất.

Do trọng lượng nặng đầu lớn tồn tại trên những con tàu này, bị phức tạp thêm bởi những máy phóng được bố trí cao, Hải quân tháo bỏ hai trong số các ụ tháp pháo bắn ra phía sau vào năm 1939. Chúng là lớp tàu tuần cũ nhất còn hoạt động cùng với Hải quân Hoa Kỳ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai ập đến với họ vào năm 1941. Không có chiếc nào bị mất trong cuộc chiến này; nhưng do đã quá lạc hậu, chúng được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ ngay khi chiến tranh kết thúc.

Những cải biến trong thiết kế

Hai biến thể khác của lớp Omaha được dự trù. Thiết kế thứ nhất, dự định hoạt động như một tàu monitor, có hai khẩu pháo 14 inch trên hai tháp pháo nòng đơn, trong khi thiết kế kia có bốn khẩu pháo 8 inch trên hai tháp pháo nòng đôi, vốn sau đó phát triển thành lớp tàu tuần dương hạng nặng Pensacola.

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Omaha**_ là một lớp tàu tuần dương hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ. Là một thiết kế trung gian ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất,
**Lớp tàu tuần dương _Brooklyn**_ bao gồm chín chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được trang bị năm tháp pháo
**Lớp tàu tuần dương _Duguay-Trouin**_ bao gồm ba chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ được chế tạo cho Hải quân Pháp vào đầu những năm 1920 và đã tham gia Chiến tranh Thế giới thứ
**Lớp tàu tuần dương _Kuma**_ (tiếng Nhật: 球磨型軽巡洋艦; Kuma-gata keijunyōkan) bao gồm năm tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Kuma_ được tiếp nối bởi lớp _Nagara_ rất tương
**Lớp tàu tuần dương _Furutaka**_ (tiếng Nhật: 古鷹型巡洋艦 - Furutaka-gata junyōkan) là một lớp tàu tuần dương hạng nặng bao gồm hai của chiếc Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được sử dụng trong
**_Furutaka_** (tiếng Nhật: 古鷹) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**USS _Omaha_ (CL-4)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương mang tên nó bao gồm mười chiếc được chế tạo ngay
**Lớp _Lexington**_ là lớp tàu chiến-tuần dương duy nhất được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng. Sáu chiếc trong lớp - được đặt những cái tên liên quan đến Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ
**Lớp tàu khu trục _Wickes**_ (từ DD-75 đến DD-185) là một nhóm 111 tàu khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong những năm 1917-1919. Cùng với 6 chiếc lớp _Caldwell_ dẫn trước
**HMS _Ceres_ (D59)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương _C_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất,
**HMS _Glasgow_ (21)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc thuộc lớp Town (1936), từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi được cho
**HMS _Bellona_ (63)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của một lớp phụ gồm bốn chiếc thuộc lớp tàu tuần dương _Dido_, được
**USS _Memphis_ (CL-13)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã tiếp tục
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Omaha**_ để vinh danh thành phố Omaha thuộc tiểu bang Nebraska: * USS _Omaha_ (1869), là một tàu xà-lúp gỗ chân
**USS _Milwaukee_ (CL-5)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Concord_ (CL-10)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó Là chiếc tàu
**USS _Cincinnati_ (CL-6)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Detroit_ (CL-8)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Trenton_ (CL-11)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Marblehead_ (CL-12)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra hoạt động ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Raleigh_ (CL-7)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Richmond_ (CL-9)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Omaha_ của Hải quân Hoa Kỳ được đưa ra phục vụ ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu
**USS _Jouett_ (DD-396)** là một tàu khu trục lớp _Somers_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**USS _Thompson_ (DD-627/DMS-38)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Straub_ (DE-181)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của
**USS _Rodman_ (DD-456/DMS-21)**, là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Marts_ (DE-174)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Hambleton_ (DD-455/DMS-20)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**USS _Nelson_ (DD-623)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**HMS _Talybont_ (L18)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu III của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và nhập biên chế năm 1943. Nó đã hoạt động trong
**USS _Frankford_ (DD-497)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Maloy_ (DE-791/EDE-791)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo hạ sĩ quan Thomas
**USS _Satterlee_ (DD-626)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**USS _Murphy_ (DD-603)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Benson_ của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đấu tiên của
**USS _Somers_ (DD-381)** là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu của lớp _Somers_, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ năm của Hải
**Omaha**, hay **Bãi Omaha**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune - chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không
**USS _Utah_ (BB-31)** là một thiết giáp hạm cũ thuộc lớp Florida, đã bị tấn công và đánh chìm tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941. Nó là chiếc tàu chiến
**HMS _Narborough_ (K578)** là một tàu frigate lớp _Captain_ của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-569 (chưa
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Milwaukee**_ theo tên thành phố Milwaukee thuộc tiểu bang Wisconsin: * USS _Milwaukee_ (1864) là một tàu monitor hạ thủy năm
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Marblehead**_ nhằm vinh danh thành phố cảng Marblehead thuộc tiểu bang Massachusetts: * USS _Marblehead_ (1861) là một pháo hạm hạ
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Cincinnati**_, theo tên thành phố Cincinnati thuộc tiểu bang Ohio: * USS _Cincinnati_ (1862) là một pháo hạm sông bọc sắt
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Detroit**_, nhằm tôn vinh thành phố Detroit thuộc tiểu bang Michigan: * USS _Detroit_ (1813) là một tàu chiến 12 khẩu
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Memphis**_, nhằm tôn vinh thành phố Memphis thuộc tiểu bang Tennessee: * USS _Memphis_ (1853) là một tàu hơi nước gỗ
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Raleigh**_, theo tên thành phố Raleigh, North Carolina: * USS _Raleigh_ (1776) là một tàu frigate chạy buồm 32 khẩu pháo
Bốn tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt tên **USS _Astoria**_, theo tên thành phố Astoria, Oregon: * USS _Astoria_ (1867) được đặt lườn năm 1867, nhưng được đổi tên thành _Omaha_
Năm tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Concord**_, theo thị trấn Concord, Massachusetts, địa điểm diễn ra trận đánh đầu tiên của cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Trenton**_ nhằm vinh danh thành phố Trenton, New Jersey, địa điểm diễn ra trận Trenton trong cuộc Chiến tranh Cách mạng
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được đặt cái tên **USS _Richmond**_ theo tên thủ phủ của tiểu bang Virginia: * USS _Richmond_ (1798) là một tàu brig hạ thủy và được
**USS _Plunkett_ (DD-431)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua