✨Núi Tatra

Núi Tatra

nhỏ| Tatra - ảnh từ công cụ [./https://en.wikipedia.org/wiki/NASA_World_Wind NASA World Wind] (Vệ tinh nhân tạo NLT Visible) nhỏ| [./https://en.wikipedia.org/wiki/Western_Tatras Western Tatras] -n hìn từ độ cao trung bình nhỏ|Dãy núi Tatra - Czerwone Wierchy nhỏ|Cáo ở dãy núi Tatra nhỏ|Thung lũng Ngũ Hồ nhỏ|Ảnh hưởng của cơn bão năm 2004 ở Slovakia nhỏ|Hoa nhung tuyết nhỏ|Hoa Gentiana puncata- họ Long Đởm nhỏ|Sơn dươngTatra (Rupicapra rupicapra tatrica) nhỏ|Con Mac- mốt Tatra (Marmota marmota latirostris) nhỏ| Đỉnh [[Gerlachovský štít, Slovakia ]] nhỏ| Niżnie Rysy, nhìn từ [[Czarny Staw pod Rysami ]] Núi Tatra, Tatras hoặc Tatra (Tatry trong tiếng Slovak () và tiếng Ba Lan () - danh từ số nhiều), là một dãy núi tạo thành biên giới tự nhiên giữa Slovakia và Ba Lan. Đây là dãy núi cao nhất trong dãy núi Karpat. Dãy Tatras đang được nói đến khác với dãy Tatras thấp (), cái nằm về phía nam dãy núi Tatra ở Slovakia.

Dãy núi Tatra có diện tích , trong đó khoảng (77,7%) nằm trên lãnh thổ Slovakia và khoảng (22,3%) thuộc lãnh thổ Ba Lan. Đỉnh cao nhất đạt 2.655 m (8710 ft), được gọi là Gerlach, nằm ở phía bắc Poprad, thuộc hoàn toàn về phía Slovakia. Điểm cao nhất ở Ba Lan, Rysy, cao 2.499 m (8200 ft), nằm ở phía nam của Zakopane, trên biên giới với Slovakia.

Chiều dài của Tatras, được đo từ chân đồi phía đông của Kobylí vrch (1109 m) đến chân đồi phía tây nam của Ostrý vrch (1128 m), theo một đường thẳng, là (hoặc theo một vài số liệu khác), Dãy chính của Tatras chạy từ làng Huty ở đầu phía tây đến làng Ždiar ở cuối phía đông.

Chính phủ bảo tồn dãy Tatras bằng cách thành lập Công viên Quốc gia Tatra, Slovakia và Công viên Quốc gia Tatra, Ba Lan. Hai công viên này cùng gia nhập vào Hệ thống khu dự trữ sinh quyển thế giới của UNESCO. Năm 1992, UNESCO đã chỉ định các công viên này của Ba Lan và Slovakia là khu dự trữ sinh quyển xuyên biên giới trong Hệ thống khu dự trữ sinh quyển thế giới, theo Chương trình Con người và Sinh quyển.

Từ nguyên

Bản ghi đầu tiên của tên này là từ năm 999, khi Công tước Séc Boleslaus II hấp hối, ông nhớ lại khi Công tước xứ Bohemia mở rộng lãnh thổ đến vùng núi Tritri. Ngoài ra, Henry IV đã đề cập đến Giáo phận Prague với những ngọn núi Tritri trong một tài liệu khác của ông vào năm 1086. Biên niên sử Kosmas (Chronica Boemorum) cũng đề cập đến tên Tatri. vào năm 1125

Tổng quan

Tatras là một dãy núi có hình dạng lượn sóng tự nhiên, có nguồn gốc từ núi Alps, do đó nó mang đặc trưng của một vùng núi trẻ, khá giống với cảnh quan của dãy Alps, mặc dù nhỏ hơn đáng kể. Đây là dãy núi cao nhất trong dãy Karpat.

Nó bao gồm các rặng núi bên trong của:

  • Đông Tatras (Východné Tatry, Tatry Wschodnie), lần lượt bao gồm: Belianske Tatras (Belianske Tatry, Tatry Bielskie) và Tatras cao (Vysoké Tatry, Tatry Wysokie)
  • Tây Tatras (, )

Khách du lịch và các nhà nghiên cứu yêu thích Tatras bởi tính tổng quan của dãy núi này. Họ cũng dễ khám phá, tiếp cận nó. Do đó, những ngọn núi này là khu tổ chức các trò chơi mùa đông nổi tiếng, với khu nghỉ mát như Poprad và thị trấn Vysoké Tatry (Thị trấn của High Tatras) được lập ra năm 1999 ở Slovakia. Khu vực này bao gồm cả khu du lịch trước đây: Štrbské Pleso, Stary Smokovec, và Tatranská Lomnica hoặc Zakopane, còn được gọi là "thủ đô mùa đông của Ba Lan". Dãy High Tatras, với 24 (hoặc 25) đỉnh đạt độ cao 2.500 m trên mực nước biển, cùng với dãy Nam Karpat, trở thành đại diện cho dãy núi thuộc cảnh quan núi cao duy nhất trong bán kính quanh Karpat.

Quyền sở hữu và tranh chấp biên giới

Đến cuối thời kỳ Liên bang Ba Lan và Lietuva, biên giới với Vương quốc Hungary ở Tatras không được xác định chính xác. Tatras trở thành một vùng biên giới không có người ở. Vào ngày 20 tháng 11 năm 1770, dưới vỏ bọc bảo vệ chống lại bệnh dịch hạch ở Podolia, một đội quân Áo đã xâm nhập vào vùng đất Ba Lan và thành lập một rào cản để ngăn lây lan dịch bệnh, chiếm giữ Sądecczyzna, Spiš và Podhale. Hai năm sau, sự kiện Phân chia Ba Lan thứ nhất giao đất cho Áo. Vào năm 1824, vùng Zakopane và khu vực xung quanh Morskie Oko đã được mua từ chính quyền của Đế quốc Áo bởi một người Hungary tên là Emanuel Homolacs. Khi Áo-Hungary được thành lập vào năm 1867, dãy núi Tatra đã trở thành biên giới tự nhiên giữa hai quốc gia của chế độ quân chủ kép, nhưng biên giới vẫn chưa được xác định chính xác. Năm 1889, Władysław Zamoyski, một Bá tước Ba Lan đã mua đấu giá khu vực Zakopane cùng với khu vực xung quanh Morskie Oko. Do nhiều tranh chấp về quyền sở hữu đất đai vào cuối thế kỷ 19, các nỗ lực phân định biên giới đã được thực hiện. Họ đã không thể đưa ra thống nhất cho đến năm 1897, vụ kiện đã được đưa ra tòa án quốc tế. Vào ngày 13 tháng 9 năm 1902, biên giới Áo-Hung trong khu vực tranh chấp được xác định chính xác.

Một tranh chấp biên giới mới giữa Ba Lan và Tiệp Khắc đã bắt đầu ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, khi hai quốc gia này được thành lập. Trong số các yêu sách của mình, Ba Lan tuyên bố quyền sở hữu một phần lớn của khu vực Spiš. Yêu cầu này cũng bao gồm các tiểu vùng của dãy núi Tatra. Sau nhiều năm xung đột biên giới, hiệp ước đầu tiên (với sự hỗ trợ bởi Hội Quốc Liên) đã được ký kết vào năm 1925, theo đó Ba Lan nhận được một phần cực bắc của vùng Spiš, ngay bên ngoài (về phía đông bắc) dãy núi Tatra, do đó không thay đổi biên giới trên núi. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hai bên xung đột gay gắt nhằm chiếm nhiều đất đai hơn, nhưng hiệp ước cuối cùng được ký vào năm 1958 (có hiệu lực cho đến ngày nay) đã bảo tồn đường biên giới được thống nhất vào năm 1925.

Biên giới và đi bộ đường dài

Với sự sụp đổ của Đế quốc Áo vào năm 1918 và sự thành lập của Ba Lan và Tiệp Khắc, dãy núi Tatra bắt đầu bị chia cắt bởi biên giới quốc tế. Điều này mang lại những khó khăn đáng kể cho khách bộ hành, vì việc đi qua biên giới mà không đi qua một trạm kiểm soát biên giới chính thức là bất hợp pháp, và trong nhiều thập kỷ, không có trạm kiểm soát cho người đi bộ ở bất cứ đâu trên sườn núi biên giới. Các cửa khẩu biên giới đường bộ gần nhất nằm ở Tatranská Javorina - ysa Polana và Podspády - Jurgów ở phía đông, và Thatá Hora - Chocholów ở phía tây. Thật vậy, những khách bộ hành vượt qua biên giới mà không ngang qua những cửa khẩu này thường bị cảnh sát biên giới của cả hai nước phạt hoặc thậm chí bị giam giữ. Mặt khác, biên giới lỏng lẻo, dễ xuyên qua trong dãy núi Tatra cũng bị lợi dụng nhiều cho việc buôn lậu hàng hóa xuyên biên giới như rượu, thuốc lá, cà phê, v.v... giữa Ba Lan và Tiệp Khắc. Chỉ trong năm 1999, hơn 80 năm sau khi Đế quốc Áo giải thể, chính phủ Ba Lan và Slovakia đã ký một thỏa thuận chỉ định một số cửa khẩu biên giới miễn kiểm tra (chỉ có cảnh sát biên giới kiểm tra bất chợt) đối với người đi bộ và đi xe đạp trên đường biên giới Slovak-Ba Lan dài 444 km. Một trong những đường biên giới này được tạo ra chính bởi dãy núi Tatra, trên đỉnh Rysy. Tuy nhiên, vẫn còn những con đường mòn chạy qua biên giới trên nhiều đỉnh núi và đèo khác, nơi mà việc băng qua vẫn là bất hợp pháp. Tình trạng này cuối cùng đã được khắc phục vào năm 2007, khi cả hai quốc gia gia nhập Khối Schengen. Kể từ đó, việc vượt qua biên giới tại bất kỳ nơi nào giữa biên giới 2 quốc gia cũng là hoàn toàn hợp pháp (nghĩa là không có trạm kiểm soát chính thức nào nữa). Tất nhiên, những quy tắc của các công viên quốc gia ở cả hai bên biên giới vẫn được áp dụng. Họ hạn chế đi bằng những con đường mòn chính thức này và (đặc biệt là ở phía Slovakia) bắt buộc phải đóng cửa theo mùa để bảo vệ động vật hoang dã.

Khí hậu

Tatras nằm trong khu vực ôn đới của Trung Âu. Dãy núi này có ảnh hưởng lớn đối với sự chuyển động của khối không khí. Địa hình núi của Tatras biến nơi này trở thành một trong những vùng khí hậu đa dạng nhất khu vực đó.

Lượng mưa

Lượng mưa cao nhất được ghi nhận ở các sườn phía bắc của dãy núi. Trong tháng 6 và tháng 7, lượng mưa hàng tháng đạt khoảng . Lượng mưa trung bình từ 215 đến 228 ngày một năm. Dông trung bình 36 ngày một năm.

Lớp phủ tuyết

Độ dày tối đa trên đỉnh lên tới:

  • ở Ba Lan - Kasprowy Wierch:
  • ở Slovakia - Lomnický Štít:

Đỉnh núi đôi khi được bao phủ bởi tuyết hoặc băng trong suốt cả năm, thường xuyên xảy ra hiện tượng tuyết lở.

Nhiệt độ

Biên độ nhiệt từ vào mùa đông đến trong những tháng ấm hơn. Nhiệt độ cũng thay đổi tùy theo độ cao và mức phơi nắng theo độ dốc núi nhất định. Nhiệt độ dưới kéo dài khoảng 192 ngày trên các đỉnh núi.

Gió

Tốc độ gió trung bình trên các đỉnh là 6 m/giây.

  • gió nam ở phía bắc
  • gió tây ở chân núi Tatra (lưu vực Orava -Nowy Targ)
  • gió phơn (tiếng Ba Lan: halny) thường thổi vào giữa tháng Mười và tháng Năm. Gió ấm,khô và có thể gây ra thiệt hại lớn.
  • Tốc độ gió tối đa là (số liệu đo được vào ngày 6 tháng 5 năm 1968).

Vào ngày 19 tháng 11 năm 2004, phần lớn các khu rừng ở phía Nam Slovakia của High Tatras đã bị hư hại do một cơn bão gió mạnh. và một loài bọ đuôi

Các đỉnh núi

Tập tin:Gerlach south face B.jpg|Gerlachovský štít (), đỉnh cao nhất ở Slovakia Tập tin:Kriváň.JPG|Kriváň () biểu tượng được in trên đồng tiền xu Tập tin:STANICA LANOVKY S OBSERVATÓRIOM - výhlad.JPG| Lomnický štít () Tập tin:Observatory Skalnate pleso.jpg|Đài thiên văn Skalnaté pleso () Tập tin:Bystra a4.jpg|Bystrá ()

Đông Tatras

  • Gerlachovský štít - 2655 m (Slovakia)
  • Lomnický štít - 2634 m (Slovakia)
  • Ľadový štít - 2627 m (Slovakia)
  • Pyšný štít - 2621 m (Slovakia)
  • Zadný Gerlach - 2616 m (Slovakia)
  • Lavínový štít - 2606 m (Slovakia)
  • Ľadová kopa - 2602 m (Slovakia)
  • Kotlový štít - 2601 m (Slovakia)
  • Malý Pyšný štít - 2592 m (Slovakia)
  • Kežmarský štít - 2558 m (Slovakia)
  • Vysoká - 2547 m (Slovakia)
  • Končistá - 2538 m (Slovakia)
  • Baranie rohy - 2526 m (Slovakia)
  • Dračí štít - 2523 m (Slovakia)
  • Ťažký štít - 2520 m (Slovakia)
  • Malý Kežmarský štít - 2513 m (Slovakia)
  • Rysy - 2503 m, 2499 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Kriváň - 2495 m (Slovakia)
  • Slavkovský štít - 2452 m (Slovakia)
  • Batizovský štít - 2448 m (Slovakia)
  • Veľký Mengusovský štít (tiếng Slovak); Mięguszowiecki Szczyt Wielki (Ba Lan) - 2438 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Malé Rysy (tiếng Slovak); Niżnie Rysy (Ba Lan) - 2430 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Východna Vysoka - 2429 m (Slovakia)
  • Východný Mengusovský štít (tiếng Slovak); Mięguszowiecki Szczyt Czarny (Ba Lan) - 2410 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Prostredný Mengusovský štít (tiếng Slovak); Mięguszowiecki Szczyt Pośredni (Ba Lan) - 2393 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Čubrina (tiếng Slovak); Cubryna (Ba Lan) - 2376 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Svinica (tiếng Slovak); Winica (Ba Lan) - 2301 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Kozi Wierch - 2291 m (Ba Lan)
  • Jahňaci štít - 2230 m (Slovakia)
  • Zamarła Turnia - 2179 m (Ba Lan)
  • Kościelec - 2155 m (Ba Lan)
  • Mnich - 2068 m (Ba Lan)

Tây Tatras

  • Bystrá - 2248 m (Slovakia)
  • Jakubina - 2194 m (Slovakia)
  • Baranec - 2184 m (Slovakia)
  • Baníkov - 2178 m (Slovakia)
  • Klin (tiếng Slovak); Starorobociański Wierch (Ba Lan) - 2176 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Pachoľa - 2167 m (Slovakia)
  • Hrubá kopa - 2166 m (Slovakia)
  • Nižná Bystrá - 2163 m (Slovakia)
  • Štrbavy - 2149 m (Slovakia)
  • Jalovecký príslop - 2142 m (Slovakia)
  • Hrubý vrch (tiếng Slovak); Jarząbczy Wierch (Ba Lan) - 2137 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Tri kopy - 2136 m (Slovakia)
  • Veľká Kamenistá (tiếng Slovak); Kamienista (Ba Lan) - 2126 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Krzesanica - 2122 m (Slovakia / Ba Lan) - đỉnh Czerwone Wierchy / Red Mountains
  • Volovec (tiếng Slovak); Wołowiec (Ba Lan) - 2064 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Kasprov vrch (tiếng Slovak); Kasprowy Wierch (Ba Lan) - 1987 m (Slovakia / Ba Lan)
  • Giewont - 1894 m (Ba Lan)
  • Sivý vrch - 1809 m (Slovakia)

Du lịch

Năm 1683, một tác giả ẩn danh đã xuất bản một cuốn sách về những cuộc phiêu lưu và du ngoạn ở Tatras. Tác phẩm này trở nên rất nổi tiếng ở châu Âu và góp phần vào sự phát triển của du lịch ở Tatras. Sau này, tác giả của cuốn sách công khai danh tính là Daniel Speer, sinh ra ở Wrocław, người đã có thời gian sống ở tiểu vùng Tatra. Điểm đến du lịch nổi tiếng nhất ở Ba Lan là Zakopane, ngoài ra còn có các điểm du lịch phát triển khác như Kościelisko, Poronin, Biały Dunajec, Bukowina Tatrzańska, Białka Tatrzańska, Murzasichle, Małe Ciche, Ząb, Jurgów, Brzegi. Tại Slovakia, điểm du lịch nổi tiếng nhất là thành phố Vysoké Tatry, bao gồm ba phần: Štrbské Pleso, Starý Smokovec và Tatranská Lomnica. "Núi quốc gia" của Ba Lan (điển hình trong thần thoại và văn hóa dân gian) là Giewont, trong khi "Núi quốc gia" của Slovak là Kriváň.

Đường mòn

nhỏ| Orla Perć - từ đỉnh [[:pl:Kozie Czuby|Kozie Czuby ]] Orla Perć được coi là đường mòn trên núi khó đi và nguy hiểm nhất trong dãy Tatras, một điểm đến chỉ dành cho khách du lịch và người leo núi có kinh nghiệm. Nó nằm trọn trong phần núi Tatras của lãnh thổ Ba Lan, được khai phá vào năm 1901 bởi Franciszek Nowicki, một nhà thơ và hướng dẫn viên du lịch núi đồi người Ba Lan, và được xây dựng từ năm 1903-1906. Hơn 100 người đã mất mạng trên tuyến đường kể từ khi nó được mở. Con đường được đánh dấu bằng các dấu hiệu màu đỏ. Điểm cao nhất trong dãy núi Tatra có thể được vào tự do là dọc theo một con đường được dán nhãn là Rysy. Hầu hết các đỉnh núi ở Tây Tatras (ở cả hai bên biên giới), bao gồm cả sườn núi chính đều có thể vào tự do bằng những con đường mòn đi bộ. Núi Đông Tatras trong phần lãnh thổ Slovakia chỉ có bảy đỉnh (trong tổng số 48 đỉnh với Phần lồi địa hình ít nhất là 100 m) có thể được phép lên bằng cách đi bộ đường dài (Rysy, Svinica / Świnica, Slavkovský STIT, Kriváň, Kôprovský STIT, Východná Vysoka, và Jahňací Stit). Hai trong số này (RysySvinica / winica) nằm ở biên giới với Ba Lan và có thể trèo lên từ phía Ba Lan. Phần còn lại của các đỉnh ở phía Slovakia (bao gồm cả đỉnh cao nhất - Gerlachovský štít) chỉ được lên khi đi cùng hướng dẫn viên du lịch đồi núi có chứng nhận chuyên nghiệp. Các thành viên UIAA - Liên đoàn Leo núi Quốc tế có thể leo lên mà không cần đi cùng hướng dẫn viên được chứng nhận, nhưng không sử dụng các tuyến đường thông thường (dễ nhất) (tính từ mức độ khó III). Trong phần lãnh thổ Slovakia, hầu hết các lối mòn đi bộ đường dài ở Tatras đều đóng cửa từ ngày 1 tháng 11 đến ngày 15 tháng 6. Chỉ có những con đường mòn từ các khu định cư lên đến các túp lều trên núi được mở. Ở Ba Lan, những con đường mòn được mở quanh năm.

Sự tham gia của con người

Vào thế kỷ 18 và 19, những ngọn núi được sử dụng để chăn thả cừu và khai thác mỏ. Nhiều cây đã bị đốn hạ để nhường đường cho các hoạt động của con người. Mặc dù các hoạt động này đã được dừng lại, nhưng vẫn để lại tác động tiêu cực đến giờ. Hơn nữa, ô nhiễm từ các khu vực công nghiệp của Krakow ở Ba Lan hoặc Ostrava ở Cộng hòa Séc, cũng như du lịch, gây ra thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên, các tình nguyện viên bắt đầu các sự kiện thu gom rác thường xuyên ở cả hai bên biên giới.

Công viên quốc gia Slovakia Tatra (công viên Tatranský národný; TANAP) được thành lập vào năm 1949 () và Công viên Quốc gia Tatra Ba Lan (Tatrzański Park Narodowy) được thành lập vào năm 1954 (215.56 km2). Hai công viên đã được thêm vào danh sách Khu dự trữ sinh quyển của UNESCO năm 1993.

  • Năm 2006, bộ phim Bollywood Fanaa, miêu tả những địa điểm ở Kashmir, được quay tại Zakopane, chủ yếu vì những rủi ro liên quan đến nổi dậy ở Kashmir, cũng do phong cảnh núi non tương đồng.  

Hình ảnh

giữa|nhỏ|800x800px| Dãy núi Tatra nhìn từ dãy núi Pieniny, [[Ba Lan ]] giữa|nhỏ|800x800px| Toàn cảnh núi Tatra từ "Đồi 502" gần Krakow nhỏ|Bystrá nhỏ|Tatras nhìn từ Babia Góra nhỏ|Ao đen Ba Lan (Czarny Staw Arlingtonki) ở High Tatras nhỏ|Tatras cao, Ba Lan nhỏ| PZL W-3 Sokół - [[Máy bay trực thăng TOPR ]]

Những người đáng chú ý

(Bảng chữ cái theo họ)

  • Adam Asnyk, nhà thơ và nhà viết kịch, một trong những thành viên đầu tiên của Hội Tatra
  • Klemens Bachleda (1851-1910), hướng dẫn viên núi và người cứu hộ núi
  • Balo Oswald
  • Tytus Chałubiński, người sáng lập Hiệp hội Tatra Ba Lan
  • Jan Długosz (người leo núi)
  • Walery Eljasz-Radzikowski
  • Julian Fałat
  • Jan Nepomucen Głowacki, được coi là cha đẻ của trường phái tranh phong cảnh Ba Lan, là người đầu tiên dành toàn bộ loạt tác phẩm cho dãy núi Tatra
  • Seweryn Goszczyński, nhà thơ lãng mạn người Ba Lan đã trốn thoát khỏi đó từ Phân vùng Áo
  • Ludwig Greiner, người xác định đỉnh Gerlachovský là đỉnh của Tatras và Carpathians
  • Ruth Hale (người leo núi)
  • Władysław Hasior
  • William Horwood (tiểu thuyết gia), người có tiểu thuyết Wolves of Time phần lớn về vùng núi Tatra
  • Mieczysław Karłowicz
  • Jan Kasprowicz
  • Kornel Makuszyński
  • Franciszek Nowicki
  • Władysław Orkan
  • Kazimierz Przerwa-Tetmajer
  • Daniel Speer, nhà soạn nhạc và nhà văn Baroque
  • Stanisław Staszic
  • Mieczysław Szczuka
  • Karol Szymanowski
  • Gotran Wahlenberg
  • Stanisław Witkiewicz
  • Leon Wyczółkowski
  • Władysław Zamoyski
  • Mariusz Zaruski
  • Ludwik Zejszner
  • Stefan eromski

Xếp hạng

  • Công viên quốc gia Tatra Ba Lan được xếp hạng thứ 12 bởi CNN
  • Tạp chí Phố Wall đã công nhận Morskie Oko là một trong năm hồ đẹp nhất thế giới
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ| Tatra - ảnh từ công cụ [./https://en.wikipedia.org/wiki/NASA_World_Wind NASA World Wind] (Vệ tinh nhân tạo NLT Visible) nhỏ| [./https://en.wikipedia.org/wiki/Western_Tatras Western Tatras] -n hìn từ độ cao trung bình nhỏ|Dãy núi Tatra - Czerwone Wierchy nhỏ|Cáo
**Dãy núi** **High Tatras** hoặc **High Tatra** (tiếng Slovak: Vysoké Tatry; ; , _Vysoki Tatry_; ; ), là một dãy núi dọc theo biên giới phía bắc Slovakia trong Vùng Prešov và phía nam Ba
: Dãy núi Sudetes và dãy núi Carpathian nằm ở hai bên biên giới phía nam của Ba Lan. Trong Ba Lan, cả hai rặng núi này đều không thể ngăn chặn cấm việc cư
**Dãy núi** **Beskids** hoặc **Beskid** (, , , (_Beskydŷ_), (_Beskydy_), _(Beskidy))_ là một cái tên truyền thống dùng để miêu tả một loạt các dãy núi nằm ở khu vực Carpathians, kéo dài từ Cộng
**Vườn Quốc gia Tatra** (; viết tắt TPN) là một vườn quốc gia nằm ở núi Tatra ở Tatra County, trong khu vực Małopolskie-Małopolska, miền trung-nam Ba Lan. Công viên có trụ sở chính tại
**Chó chăn cừu Tatra** (, là một giống chó được đưa vào Dãy núi Tatra của miền Nam Ba Lan. Chó chăn cừu Tatra chủ yếu được nuôi để bảo vệ vật nuôi. Bản năng
**Vườn quốc gia Tatra, Slovakia** (tiếng Slovak: _Tatranský národný park,_ viết tắt: **TANAP**) là một trong chín vườn quốc gia nổi tiếng ở Slovakia, được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1949 (trong
nhỏ|Trang phục cưới truyền thống của người cao nguyên Podhale nhỏ|Trang phục dân gian từ vùng Podhale - nữ và nam; thiết kế hiện đại. nhỏ|Làm clasp truyền thống vùng cao. Tại xưởng của thợ
**Volovec** (trong tiếng Slovak) hoặc **Wołowiec** (tiếng Ba Lan) là một ngọn núi ở dãy núi Tây Tatras ở biên giới Slovakia và Ba Lan. Nó nằm trên Sườn chính của Tây Tatras giữa núi
**Dãy núi Karpat** hay **dãy núi Carpat** (; Séc, Ba Lan và Slovakia: _Karpaty_; Ukraina: _Карпати_ (Karpaty); Đức: _Karpaten_; Serbia: _Karpati_ / _Карпати_; Hungary: _Kárpátok_) là một dãy núi tạo thành hình vòng cung dài
nhỏ|200x200px| Quang cảnh hẻm núi Kraków từ Ornak nhỏ|200x200px| Tuyến du lịch khe núi nhỏ|200x200px| Phần đầu của Hẻm núi Kraków nhỏ|200x200px| Tuyến du lịch khe núi nhỏ|200x200px| Phần trên của hẻm núi Kraków **Hẻm
thumb|Đỉnh Tây Bắc thumb|Niżnie Rysy (bên trái) và Rysy thumb|Rysy thumb|Góc nhìn toàn cảnh của Tatra Mountains và Rysy **Rysy** (tiếng Ba Lan và tiếng Slovak: Rysy, phát âm tiếng Ba Lan: [rɨsɨ]; tiếng Đức:
**Chopok** là đỉnh núi cao thứ ba của dãy núi Tatra Hạ (cao 2.024 m, chỉ sau các đỉnh Ďumbier và đỉnh Štiavnica lân cận) ở miền trung của Slovakia. Đỉnh núi có tầm nhìn
phải|nhỏ|230x230px| Xuất thân qua The Honoratka Gully phải|nhỏ|230x230px| Bản đồ đường dẫn phải|nhỏ|244x244px| Con đường đi xuống từ Kozie Czuby phải|nhỏ|307x307px| Con đường trên Kozi Wierch phải|nhỏ|230x230px| Dụng cụ hỗ trợ leo núi **Orla Perć**
**Giewont** () là một khối núi thuộc dãy núi Tatra ở Ba Lan, và có độ cao 1.895 mét so với mực nước biển. Nó bao gồm ba đỉnh (độ cao m/mét trên mực nước
nhỏ|250x250px| Đỉnh Romanka nhỏ|500x500px| Toàn cảnh đến Żywiec Beskids từ Leskowiec (Beskid Mały) **Beskids Żywiec** () là một dãy núi ở ngoài Tây Carpathians ở miền nam Ba Lan. Đây là phạm vi cao thứ
nhỏ|250x250px| Quang cảnh [[Núi Tatra|Tatras từ lâu đài đổ nát Grodzisko tại Skała ]] nhỏ|250x250px| Jura Ba Lan, Găng tay đá (_Skała Rękawica_) tại Vườn quốc gia Ojców phải|nhỏ| Jura Ba Lan, Hercules 'Bludgeon (_Maczuga
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Zakopane** là một thị trấn nằm ở tỉnh Lesser Poland, ngay dưới chân dãy núi Tatra, phía nam của vùng Podhale. Từ năm 1975 - 1998, thị trấn là một phần của tỉnh Nowy Sącz,
**Oscypek, Oszczypek** (tiếng Ba Lan; số nhiều: _oscypki_) là một loại pho mát hun khói làm từ sữa cừu muối độc quyền ở vùng núi Tatra của Ba Lan. Oscarypek được thực hiện bởi các
**Morskie Oko** (nghĩa đen là "Mắt biển") là hồ nước lớn nhất và sâu thứ tư trong khu vực núi Tatra. Hồ này nằm sâu trong Công viên Quốc gia Tatra, Ba Lan, thuộc vùng
**Sơn dương Tatra** (Danh pháp khoa học: _Rupicapra rupicapra tatrica_; ; ) là một phân loài của loài sơn dương Rupicapra rupicapra. Chúng là một phân loài của sơn dương thuộc chi Rupicapra. Đời sống
nhỏ|240x240px| [[Núi Tatra|Quang cảnh dãy núi Tatra từ đồi Gubałówka. ]] **Cáp treo Gubałówka** nằm ở Zakopane, Ba Lan và lên núi Gubałówka. Nó được vận hành bởi PKL, Đường dây cáp Ba Lan hoặc
nhỏ|300x300px| Podhale. Xem từ Tarasówka, với [[Núi Tatra|dãy núi Tatra ở đường chân trời ]] nhỏ|300x300px| Nhìn bằng mắt của [[Nowy Targ, thủ phủ của khu vực ]] trái|nhỏ| Cư dân của Podhale trong trang
nhỏ|311x311px|Thung lũng Kościeliska **Kościeliska** là một thung lũng ở Ba Lan, thuộc dãy núi Tatra, Tây Tatras, Ba Lan. Thung lũng này trải dài khoảng 9 km từ làng Kiry đến sườn núi chính của Tatras.
**Cộng hòa Slovakia** (tiếng Việt: **Xlô-va-ki-a**; tiếng Anh: **Slovakia** ; tiếng Slovak: , đầy đủ ) là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Âu với dân số trên 5 triệu người
**Waksmund** là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Nowy Targ, thuộc quận Nowy Targ, Voivodeship của Ba Lan, ở miền nam Ba Lan. Nó nằm khoảng về phía đông của Nowy Targ
**Zefiryn (Zefir) Alojzy Ćwikliński Ceferino** (sinh ngày 6 tháng 2 năm 1871 tại Lviv – mất ngày 24 tháng 7 năm 1930 tại Zakopane) là một họa sĩ người Ba Lan, chủ yếu được biết
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
phải|nhỏ|290x290px|
_Ân xá cho tù nhân chính trị_ (Áp phích, Mieczysław Szczuka, 1926)
**Mieczysław Szczuka** (sinh ngày 19 tháng 10 năm 1898 - mất ngày 13 tháng 8 năm 1927) là một họa sĩ,
nhỏ|Gò Kociuszko (2006) **Gò Kościuszko**() Ở Kraków, Ba Lan, được dựng lên bởi Cracovians trong kỷ niệm của các nhà lãnh đạo quốc gia Ba Lan Tadeusz Kosciuszko, là một gò mô hình nhân tạo
**Krystyna Gorazdowska** (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1912 tại Warsaw, mất ngày 2 tháng 9 năm 1998 tại Krakow) là nghệ sĩ nhiếp ảnh người Ba Lan, được vinh danh với danh hiệu Nghệ
**Jurgów** (; , , hay _Joerg_) là một ngôi làng nhỏ (khoảng 900 dân) nằm ở vùng Spisz phía nam Ba Lan, gần biên giới với Slovakia và thị trấn Bukowina Tatrzańska, trên sông Białka.
**Podtatrzański Trench** (Ba Lan: Row Podtatrzański; Slovakia: Podtatranská brázda) (514,14) - một tiểu vùng nằm dưới dãy núi Tatra, một phần của vùng Podhale-Magura. Rãnh phân chia dãy núi Choč và Tatra từ cao nguyên
Ba Lan là một trong những địa điểm du lịch được ưa chuộng nhất trên thế giới nói chung và châu Âu nói riêng, và là một phần của du lịch thế giới. Những điểm
**Aleksander Kotsis** (sinh ngày 30 tháng 5 năm 1836, Kraków – mất ngày 7 tháng 8 năm 1877, Kraków) là một họa sĩ người Ba Lan, chuyên sáng tác tranh phong cảnh và chân dung.
phải|nhỏ| Quang cảnh phần phía bắc của dãy Považskský Inovec nhìn từ Trenčianske Stankovece. Ngọn núi cao nhất ở giữa là Inovec (1042 m).|427x427px **Považský Inovec** là một dãy núi ở phía tây Cộng hòa
**Trzy Korony** (, ) là đỉnh của khối núi Three Crowns (Ba vương miện), một phần độc lập của dãy núi Pieniny ở phía nam của Ba Lan. Trzy Korony tạo thành phần trung tâm
nhỏ|Phạm vi tối đa của băng hà ở Ba Lan. nhỏ|Biên độ nhiệt ở Nam Cực trong 450.000 năm qua, dựa trên phân tích thành phần đồng vị của nước từ lõi băng. Trong thế
[[Tập tin:Koppen World Map Dfc Dwc Dsc Dfd Dwd Dsd.png|thumb|right|upright=1.8|_Khí hậu cận Bắc cực_ trên thế giới ]] **Khí hậu cận Bắc Cực** (còn gọi là **khí hậu cận cực**, **khí hậu cận alpine** hoặc
**Vườn quốc gia Pieniny** () là một khu vực được bảo vệ nằm ở trung tâm của dãy núi Pieniny ở cực nam của Ba Lan. Về mặt hành chính, Công viên nằm trong Voivodeship
**Kiến trúc theo phong cách Zakopane**, ra đời vào năm 1890 và được khởi xướng bởi kiến trúc sư người Litva, Stanislaw Witkiewicz. Phong cách kiến trúc này được lấy tên theo thị trấn Zakopane,
**Nad Tatrou sa blýska** (**"Tia chớp trên dãy Tatra"**) là quốc ca Slovakia, lời thơ được Janko Matúška sáng tác cuối năm 1843 trên nền nhạc bài dân ca _Kopala studienku_. Lời thơ mang thông
**_Xestia rhaetica_** là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Loài này hiện diện ở miền bắc châu Âu, miền trung Fennoscandia, miền bắc Nga và xa về phía đông đến vùng Xibia. Loài này
**Poprad** (tiếng Đức: Deutschendorf, tiếng Hungary: Poprád) là một thành phố Slovakia. Thành phố Poprad có diện tích km2. Thành phố có dân số 55.042 người (thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006). Đây
Sự phát triển **Tatrzańskie** là một phần của khu vực Fordon thuộc Bydgoszcz, Ba Lan, nằm trên sông Vistula. Nó đã được đưa vào Bydgoszcz kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1973. Phát triển
nhỏ| Lech, Séc, Rus và Đại [[Quốc huy Ba Lan|bàng trắng, được vẽ bởi Walery Eljasz-Radzikowski (1841 Điện1905)]] **Lech, Séc và Rus** () đề cập đến một huyền thoại sáng lập của ba dân tộc
**Vùng Prešov** (, ) là một vùng nằm ở đông bắc của Slovakia, giáp biên giới với các tỉnh Śląskie, Małopolskie, Podkarpackie của Ba Lan và tỉnh Zakarpatsk của Ukraina. Vùng Prešov có diện tích
thumb|_Pinus cembra_ thumb|_Pinus cembra_ **Thông Thụy Sĩ** hay **thông Arolla** (danh pháp hai phần: **_Pinus cembra_**) là một loài thông trong họ Thông (_Pinaceae_) có trong khu vực dãy núi Alps và dãy núi Carpat
nhỏ|240x240px **Đá Kotuńka** là một tảng đá nổi bật được tìm thấy ở trung tâm của dòng sông Dunajec ngay trước khi vào Szczawnica. Được hình thành nên từ đá vôi, đá được nhìn thấy