Nột Lặc Hách (chữ Hán: 訥勒赫; 4 tháng 6 năm 1881 – 14 tháng 2 năm 1917) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế thuộc 1 trong 12 tước vị Thiết mạo tử vương. Ông tập tước vị Thiết mạo tử vương khi chỉ mới 2 tháng tuổi, là Thiết mạo tử vương trẻ tuổi nhất lịch sử nhà Thanh. Ông cũng là một trong những Tông thất được Quang Tự Đế coi trọng, thường xuyên thay mặt Hoàng đế làm các buổi tế lễ.
Cuộc đời
Nột Lặc Hách được sinh ra vào giờ Dần, ngày 8 tháng 5 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 7 (1881), trong gia tộc Ái Tân Giác La, thuộc bối tự Hằng (恒). Ông là con trai duy nhất của Thuận Thừa Mẫn Quận vương Khánh Ân, mẹ ông là Thứ Phúc tấn Dương Giai thị (楊佳氏). Năm Quang Tự thứ 7 (1881), chỉ 2 tháng sau khi ông được sinh ra, phụ thân ông qua đời, nên ông được thế tập tước vị Thuận Thừa Quận vương (順承郡王) đời thứ 15. Có thể nói ông là vị Thiết mạo tử vương được thế tập nhỏ tuổi nhất trong lịch sử nhà Thanh.
Năm thứ 15 (1889), Quang Tự Đế nhân dịp vừa hoàn thành đại hôn với Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu mà ban ân cho Tông thất và quan viên, mặc dù theo lệ của nhà Thanh, các Tông thất tập tước chưa đủ 18 tuổi thì chỉ nhận được một nửa bổng lộc, nhưng Nột Lặc Hách được thưởng cho phép hưởng toàn bộ bổng lộc Thân vương. 5 năm sau, lại nhân dịp thọ thần 60 của Từ Hi Thái hậu, Nột Lặc Hách được ban thưởng thêm hai ngàn lượng bạc mỗi năm. Không lâu sau, Quang Tự Đế lại phụng chỉ của Từ Hi Thái hậu gia phong cho mẹ của Nột Lặc Hách từ Thứ Phúc tấn trở thành Trắc Phúc tấn của Thuận Thừa Mẫn Quận vương Khánh Ân.
Năm thứ 24 (1898), tháng 2, ông nhậm Tổng tộc trưởng của Tương Hồng kỳ. Đến tháng 11, ông theo chỉ dụ thay mặt Quang Tự Đế làm lễ tế Đông chí. Năm thứ 26 (1900), ông tiếp tục thay mặt Hoàng đế thực hiện các tế lễ quan trọng như dâng ngũ cốc cho Thượng Đế vào tháng giêng và tiết Xuân phân vào tháng 2.
Năm thứ 27 (1901), tháng giêng, ông cùng với Thuần Thân vương Tái Phong và Bối tử Phổ Luân được phái làm Duyệt binh đại thần. 1 tháng sau, quản lý sự vụ Chính Hồng kỳ Giác La học. Đến tháng 12, Quang Tự Đế tiến hành tế Đại xã tắc, lễ tế phương trạch được giao cho Duệ Thân vương Khôi Bân, lễ tế triêu nhật giao cho Túc Thân vương Thiện Kỳ, lễ tế tịch nguyệt được giao cho Nột Lặc Hách, cáo tế Đông lăng được giao cho Cung Thân vương Phổ Vĩ và cáo tế Tây lăng giao cho Bối tử Phổ Luân. Tháng 3 năm thứ 28 (1902), ông được giao quản lý Nhạc bộ (樂部) và Mông Cổ âm luật xứ. Một năm sau, ông được Quang Tự Đế phái đi thắp hương ở Thời Ứng cung một lần, Hắc Long đàm hai lần và Chiêu Hiển miếu ba lần. Năm thứ 30 (1904), tháng 9, ông trở thành Nội đại thần, được ban thưởng Tam nhãn Hoa linh. Năm thứ 31 (1905), tháng 5, ông thay thế Thiện Kỳ trở thành Đô thống Mông Cổ Tương Hoàng kỳ. Tháng 11 cùng năm, quản lý Viên Minh viên Bát kỳ Bao y Tam kỳ Quan binh và sự vụ Điểu thương doanh.
Năm thứ 32 (1906), trong tháng 4 và tháng 5, ông ba lần được Quang Tự Đế phái đi thắp hương ở Thời Ứng cung. Đến tháng 8, ông lại thay mặt Hoàng đế tế lễ Thu phân. Tháng 9, ông nhậm chức Tông Nhân phủ Hữu tông nhân và được điều làm Đô thống Mãn Châu Tương Hồng kỳ. Năm thứ 33 (1907), tháng 5, ông hai lần được phái đi thắp hương ở Hắc Long đàm. Tháng 9, ông thay quyền Tương Hoàng kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần. Tháng 10 năm thứ 34 (1908), Quang Tự Đế qua đời, Phổ Nghi theo lệnh Từ Hi Thái hậu nhập kế đại thống, kế thừa ngôi vị, lệnh cho Nột Lặc Hách cùng với Túc Thân vương Thiện Kỳ chủ trì việc tang lễ cho Đại hành Hoàng đế.
Năm Tuyên Thống nguyên niên (1909), Nột Lặc Hách thay mặt Phổ Nghi làm lễ tế ở Thái miếu. Đến tháng 9, ngày dời linh cữu của Từ Hi Thái hậu, sau khi hoàn tất lễ ở lăng tẩm, thần bài được đưa về kinh thành, Nột Lặc Hách tiếp tục được thay mặt Phổ Nghi làm lễ dọc đường đi. Cùng trong thời gian này, ông cùng với một số Vương đại thần khác được phái luân phiên trực ban ở Tạm an điện. Sau khi linh cữu của Từ Hi Thái hậu được đưa vào địa cung, mọi việc của tang lễ hoàn thành thì tất cả những Vương đại thần đã thực hiện các tế lễ đều được ban thưởng thăng hai cấp. Năm thứ 2 (1910), tháng 2, ông được phái đi làm lễ tế tiên sư Khổng Tử. Tháng 4 năm sau, ông lại tiếp tục thay mặt Hoàng đế làm lễ tế tại Thái miếu. Cũng trong tháng này, Cung Thân vương Phổ Vĩ vì ngã bệnh mà không thể tiếp tục công việc, Nột Lặc Hách thay thế trở thành Tổng lý Cấm yên sự vụ Đại thần.
Năm Dân Quốc thứ 6 (1917), ngày 3 tháng giêng (âm lịch), ông qua đời, thọ 37 tuổi, được truy thụy Thuận Thừa Chất Quận vương (順承質郡王). Ông là vị Thuận Thừa Quận vương chính thức cuối cùng của nhà Thanh.
Gia quyến
- Đích Phúc tấn: Na Lạp thị (那拉氏), con gái của Thừa Ân công Quế Tường (桂祥), là em gái của Long Dụ Thái hậu.
- Con thừa tự: Văn Quỳ (文葵; 1911 – 1992), là con trai thứ ba của Phụng ân Tướng quân Trường Phúc (长福) – con trai thứ ba của Tam đẳng Phụ quốc Tướng quân Khiêm Đức (谦德) – con trai thứ sáu của Trấn quốc Tướng quân Xuân Hữu (春佑) – con trai thứ năm của Thuận Thừa Giản Quận vương Luân Trụ. Năm 1917 được thế tập tước vị Thuận Thừa Quận vương. Năm 1945 tước vị chính thức chấm dứt.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nột Lặc Hách** (chữ Hán: 訥勒赫; 4 tháng 6 năm 1881 – 14 tháng 2 năm 1917) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế thuộc 1 trong
nhỏ|[[Nột Lặc Hách - đại tông Thuận Thừa Quận vương đời thứ 15]] **Đa La Thuận Thừa Quận vương** (chữ Hán: 多羅顺承郡王) là tước vị Quận vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Khánh Ân** (; 1844 – 1881) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị Thiết mạo tử vương. ## Cuộc đời Khánh Ân
**Hoà Thạc Anh Thân vương** (chữ Hán: 和碩英親王, ) là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Anh vương phủ là A Tế Cách
**Sách Ni** (chữ Hán: 索尼; ; 1601 – 12 tháng 8 năm 1667) còn gọi là **Tỏa Ni** (鎖尼), **Sách Nê** (索泥), họ Hách Xá Lý thị, là công thần khai quốc của nhà Thanh,
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
thumb|[[Từ Hi Thái hậu - một ví dụ điển hình của người họ Na Lạp thị triều Thanh.]] **Na Lạp thị** (chữ Hán: 那拉氏; ), hoặc **Ná Lạp thị**, **Nạp Lạt thị** (納喇氏) và **Nạp
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Gintaisi** (chữ Mãn: Hình:gintaisi.png; ? – 29 tháng 9 năm 1619), tài liệu Trung Quốc chép là **Jintaishi** (, _Kim Đài Thạch_, _Cẩm Đài Thập_), hay **Jintaiji** (, _Kim Đài Cát_), là Bối lặc cuối
**Thư phi Diệp Hách Lặc thị** (chữ Hán: 舒妃叶赫勒氏, 1 tháng 6 năm 1728 - 30 tháng 5 năm 1777), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long
**Nạp Lâm Bố Lộc** (, phiên âm: Narimbulu, ; ? - 1609), cũng dịch là "**Na Lâm Bột La**" (那林孛羅) là một thành viên của Diệp Hách Na Lạp thị, là Diệp Hách Bối lặc
**Bố Trại** (, , ?-1593), cũng dịch thành "Bốc Trai" (卜斋) hay "Bốc Trại (卜寨) là một thành viên của Diệp Hách Na Lạp thị, là Diệp Hách Bối lặc (Tây thành). Sau khi hai
**Bái Âm Đạt Lý** (, phiên âm: Baindari; ; ? – 1607) là Huy Phát Bối lặc của người Nữ Chân. ## Cuộc đời Bái Âm Đạt Lý không rõ năm sinh, là con cháu
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Ba Nhã Lạt** (, , 1582 - 1624), Ái Tân Giác La, là con trai thứ năm của Thanh Hiển Tổ Tháp Khắc Thế, em trai khác mẹ của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp
nhỏ|Ghi chép về các họ Thư Thư Giác La trong "Thông phổ" **Thư Thư Giác La thị** ( hay , ) là một dòng họ của người Mãn Châu. ## Khái quát Theo Thanh Triều
**Triệu Huệ** (chữ Hán: 兆惠, ; 1708 – 1764), tự **Hòa Phủ** (和甫), là một đại thần, tướng lĩnh đời Càn Long nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp Ông là người
**Minh Châu** (chữ Hán: 明珠, , 1635 – 1708), tự **Đoan Phạm** (端範), là một đại thần nổi tiếng dưới thời Khang Hi nhà Thanh. ## Thân thế Ông xuất thân trong gia tộc Nạp
**Uyển Trinh** (chữ Hán: 婉貞; 13 tháng 9 năm 1841 - 19 tháng 6 năm 1896), Na Lạp thị, còn được gọi là **Thuần Hiền Thân vương phi** (醇賢親王妃), Vương phi của Thuần Hiền Thân
**Át Tất Long** (chữ Hán: 遏必隆; ; ? – 1673), còn gọi là **Ngạc Tất Long** (鄂必隆), Nữu Hỗ Lộc thị, Tương Hoàng kỳ Mãn Châu, là người con thứ 16 của Ngạch Diệc Đô,
**Tân La** (; ; Tiếng Triều Tiên cổ: 徐羅伐 Syerapel, Sïrapïr; Romaja: _Seorabeol_; IPA: ; 57 TCN – 935 CN) là một trong Tam Quốc Triều Tiên, và là một trong số các Triều đại
thumb|[[Túc Thuận - một trong Cố mệnh Bát đại thần, là một thành viên của Trịnh vương phủ.]] **Hòa Thạc Trịnh Thân vương** (chữ Hán: 和碩鄭親王; , ), là tước vị Thân vương thế tập
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Ngụy thư** (chữ Hán giản thể: 魏书; phồn thể: 魏書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Ngụy Thâu, người Bắc
**Tổng đốc Lưỡng Quảng** (chữ Hán: _兩廣總督_, Lưỡng Quảng tổng đốc) là chức quan cao nhất cả về quân sự lẫn dân sự, của địa phương bao gồm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
**Nặc La Bố** (, 24 tháng 3 năm 1650 – 17 tháng 3 năm 1717) là một hoàng thân của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế 1 trong 12 tước vị
Đây là danh sách tất cả các huyện (trong đó có cả các huyện tự trị, các kỳ và các kỳ tự trị) cùng với các thành phố cấp huyện () và các quận ()