✨Nồi xúp nguyên thủy

Nồi xúp nguyên thủy

"Nồi xúp nguyên thủy" là một thuật ngữ do nhà sinh học Alexander Oparin người Liên Xô và nhà khoa học John Burdon Sanderson Haldane người Anh giới thiệu. Năm 1924, hai ông độc lập đề xuất một lý thuyết về nguồn gốc sự sống trên Trái Đất thông qua sự biến đổi xuyên suốt trong quá trình tiến hóa hóa học dần dần của những thể hạt mang cacbon tại một không gian gọi là nồi xúp nguyên thủy.

Nhà hóa sinh Robert Shapiro đã tóm tắt lý thuyết "nồi xúp nguyên thủy" của Oparin và Haldane như sau:

Trái Đất thuở sơ khai có một bầu khí quyển mang tính khử về mặt hóa học.

Trong bầu khí quyển này, sự tương tác giữa các chất đã phát xuất năng lượng dưới nhiều dạng khác nhau, sản sinh ra những hợp chất hữu cơ đơn giản (như các "đơn phân (monome)").

Những hợp chất này được tích lũy dần dần thành một "nồi xúp" đậm đặc, tập trung tại nhiều địa điểm khác nhau (như bờ biển, miệng phun đại dương, v.v...)

Và bằng những biến đổi xa hơn nữa, nhiều hợp chất polyme hữu cơ phức tạp – và cả sự sống – đã phát triển từ nồi xúp này.

Một khí quyển tính khử

Liệu rằng hỗn hợp các khí sử dụng trong thí nghiệm Miller-Urey có thật sự phản ánh đúng đắn bản chất bầu khí quyển của Trái Đất sơ khai hay không là một vấn đề còn gây tranh cãi. Cách khác, có thể đã có ít hơn những chất khí tính khử sản sinh ra một lượng sản phẩm thấp hơn và ít đa dạng hơn trong thí nghiệm. Tưởng chừng đã có một lượng đáng kể phân tử oxy xuất hiện trong bầu khí quyển tiền sinh, một nguyên nhân chủ yếu ngăn cản sự hình thành những hợp chất hữu cơ; tuy nhiên, hiện nay giới khoa học đồng thuận rằng không thể tồn tại trường hợp đó. (Xem Thảm họa oxy)

Sự hình thành đơn phân

Một trong những thí nghiệm hỗ trợ quan trọng nhất cho lý thuyết "nồi xúp nguyên thủy" đến vào năm 1953. Khi một sinh viên tốt nghiệp, Stanley Miller, và giáo sư của anh, Harold Urey đã thực hiện một thí nghiệm chứng minh cách mà các phân tử hữu cơ có thể hình thành tự nhiên từ những tiền chất vô cơ, dưới điều kiện mô phỏng tương tự Giả thuyết Oparin-Haldane. Thí nghiệm Miller-Urey trứ danh hiện nay đã sử dụng một hỗn hợp các chất khí có tính khử mạnh—metan, amonia và hydro—để tạo nên những đơn phân hữu cơ căn bản, như amino acid. Thí nghiệm này cung cấp một chứng cứ thực nghiệm trực tiếp cho luận điểm thứ hai của lý thuyết "nồi xúp", và bao trùm cả hai luận điểm còn lại của giả thuyết.

Ngoài thí nghiệm Miller-Urey, nấc thang quan trọng nhất tiếp theo trong quá trình nghiên cứu sự tổng hợp các chất hữu cơ tiền sinh chính là đến từ những luận chứng của Joan Oró, ông cho rằng base purine axit nucleic là adenine được hình thành bằng cách nung nóng dung dịch amoni cyanide lỏng. Nhằm ủng hộ cho nguồn gốc sự sống trong điều kiện hệ băng eutecti, phần lớn những nghiên cứu gần đây đã chứng minh được sự hình thành của s-triazine (nucleobase thay thế), pyrimidine (bao gồm cytosine và uracil), và adenine từ dung dịch urê bị lệ thuộc vào chu trình đóng băng-tan băng dưới một bầu khí quyển tính khử (với nguồn năng lượng từ những tia lửa phóng thích).

Những biến đổi thứ cấp

Sự hình thành tự phát của những polyme cao phân tử từ các monome tạo ra trong môi trường vô sinh dưới điều kiện mô phỏng giả thuyết "nồi xúp nguyên thủy" không phải là tất cả của một quá trình hiển nhiên. Bên cạnh những monome hữu cơ căn bản thiết yếu, các hợp chất ngăn cản sự hình thành polyme cũng xuất hiện với nồng độ cao trong suốt những thí nghiệm Miller-Urey và Oró. Ví dụ trong thí nghiệm Miller, có xuất hiện nhiều tác chất trải qua những phản ứng chéo với các amino acid hoặc tham gia phân cắt chuỗi peptide.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
"**Nồi xúp nguyên thủy**" là một thuật ngữ do nhà sinh học Alexander Oparin người Liên Xô và nhà khoa học John Burdon Sanderson Haldane người Anh giới thiệu. Năm 1924, hai ông độc lập
Xúp khoai tây được bày trong đĩa sâu lòng **Xúp** (bắt nguồn từ tiếng Pháp _soupe_ /sup/), hay còn viết là **súp**, là món ăn có dạng thứ nhất là lỏng như canh, thứ hai
hay **canh miso** hoặc **canh tương** là một món xúp truyền thống của Nhật Bản chế biến từ nước dùng _dashi_ được trộn với tương miso mềm. Ngoài ra, còn có nhiều nguyên liệu tùy
nhỏ|[[Nước cam ép]] **Nước ép** hoặc **nước sinh tố** là một dung dịch tự nhiên chứa các mô từ trái cây hoặc các loại rau. Nước ép được tạo ra bằng tác động ép, vắt
nhỏ|phải|Món tủy bò ở nhà hàng tại Tân Phú **Tủy xương** của động vật được con người sử dụng rộng rãi để chế biến làm thực phẩm là món tủy. Món tủy bao gồm tủy
**Phật nhảy tường** (, Hán-Việt: _Phật khiêu tường_), là một loại xúp trong ẩm thực Phúc Kiến. Món ăn do vị bếp trưởng nổi tiếng đồng thời là chủ của nhà hàng Tụ Xuân Viên
**_Chùm nho uất hận_** (tiếng Anh: _The Grapes of Wrath_), còn có tên trên bản dịch là **_Chùm nho thịnh nộ_** là tiểu thuyết của văn hào John Steinbeck, bao gồm 30 chương, phản ánh
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các vùng miền ở Việt Nam đều có ghi nhận tục thờ rắn. ## Miền Bắc ### Tuyên Quang Tại Đền Cấm ở thuộc
**Con rắn** là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ
**Hình tượng con ngựa trong nghệ thuật** là hình ảnh của con ngựa trong nghệ thuật, ngựa là chủ đề khá quen thuộc trong văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, chúng
nhỏ|phải|Một con ngựa đang gặm cỏ **Cơ thể học của loài ngựa** (tiếng Anh: _Equine anatomy_) là ngành giải phẫu đại thể và vi thể ở ngựa và các loài thuộc họ Ngựa khác, bao
**Yết Kiêu** (chữ Hán: 歇驕; 1242-1303) tên thật là **Phạm Hữu Thế**, quê ở làng Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Cùng với Cao Mang,
**Maroc**, quốc hiệu là **Vương quốc Maroc**, là một quốc gia có chủ quyền tại Bắc Phi, giáp Algérie về phía đông, giáp Địa Trung Hải và Đại Tây Dương về phía Bắc và Đông,
**New York** hay còn được gọi là **Thành phố New York** (; gọi tắt là **NYC**) để phân biệt với tiểu bang New York, là thành phố đông dân nhất của Hoa Kỳ. Với dân
**Sữa bắp** hay còn gọi là **sữa bột bắp** là một loại thực phẩm ở dạng lỏng (có thể ở mức độ lỏng bỏng hoặc sệt hơn) được chế biến từ nguyên liệu là bắp
**Ngựa Phần Lan** (tiếng Phần Lan: _Suomenhevonen_, nghĩa là "_con ngựa của Phần Lan_"; biệt danh:_Suokki_, hoặc tiếng Thụy Điển: _Finskt kallblod_, nghĩa đen "_ngựa máu lạnh Phần Lan_"; Trong tiếng Anh, đôi khi nó
**Mì ăn liền** (cách gọi chủ yếu được dùng trong ngôn ngữ viết, ít khi được dùng trong ngôn ngữ nói), còn gọi là **mì tôm** (cách gọi trong phương ngữ tiếng Việt miền Bắc),
thumb|Một đĩa [[pad Thái với tôm, trứng và giá đỗ]] **Ẩm thực Thái Lan** (, , ) là sự hòa trộn tinh tế của thảo dược, gia vị và thực phẩm tươi sống với những
phải|Du thuyền qua các hang động phải|Rừng đặc dụng trên núi đá vôi ngập nước phải|Bến thuyền ở trung tâm du khách Tràng An phải|Phong cảnh Tràng An, đoạn bên đại lộ Tràng An phải|Tràng
nhỏ|phải|Một con cá mập đông lạnh nhỏ|phải|Thịt cá mập **Thịt cá mập** là thịt của các loài cá mập nói chung bị giết để làm thực phẩm (chẳng hạn như cá mập nhám đuôi dài
[[Phở - món ăn mang tính biểu tượng quốc tế của ẩm thực Việt Nam]] **Ẩm thực Việt Nam** là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý pha trộn gia vị
Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như:Quy Nhơn, Tam
**New England** (_Tân Anh_) là khu vực ở vào góc đông bắc của đại lục địa Hoa Kỳ, gần kề Đại Tây Dương, tiếp giáp Canada. Vùng đất New England bao gồm 6 bang của
**Tào Thực** (chữ Hán: 曹植, 192 - 27 tháng 12, 232), tự **Tử Kiến** (子建), còn được gọi là **Đông A vương** (東阿王), là một hoàng thân của Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch
nhỏ|phải|Một con ngựa lùn Băng Đảo **Ngựa Băng Đảo** hay **ngựa Iceland** là một giống ngựa có nguồn gốc và được phát triển ở Iceland. Mặc dù những con ngựa nhỏ (ngựa giống lùn) nhưng
thumb|Nuôi _[[Eucheuma_ dưới biển ở Philippines]] **Nuôi trồng rong biển**, hay **nuôi trồng tảo biển**, là hoạt động nuôi trồng và thu hoạch rong biển. Ở dạng đơn giản nhất, nó bao gồm việc quản
nhỏ|phải|Một [[bữa ăn sáng truyền thống tại một Ryokan ở Kyoto. Các món ăn bao gồm thịt cá thu nướng, _dashimaki_ (trứng tráng Nhật Bản, ở đây theo phong cách Kansai), cơm, đậu phụ trong
**Ẩm thực Luxembourg** phản ánh vị thế của đất nước với các quốc gia Latinh và German, chịu ảnh hưởng từ ẩm thực của các nước láng giềng như Pháp, Bỉ và Đức. Bên cạnh
**Đậu bắp** còn có các tên khác **bắp còi**, **cà bắp**, ở Gò Công gọi là **Bắp Tây** và **gôm** (danh pháp hai phần: **_Abelmoschus esculentus_**), còn được biết đến ở các quốc gia nói
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Từ vựng tiếng Việt** là một trong ba thành phần cơ sở của tiếng Việt, bên cạnh ngữ âm và ngữ pháp. Từ vựng tiếng Việt là đối tượng nghiên cứu cơ bản của ngành
**Bạch Hải Đường** (1950–1983, tên thật là **Nguyễn Ngọc Truyện**) quê ở tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang) là một trong những nhân vật nổi danh nhất ở miền Nam Việt Nam vào
**Karl Friedrich xứ Baden** (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803,
**Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè** là một tuyến kênh rạch chảy qua trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Kênh dài gần 9 km, bắt đầu từ cửa cống hộp tại điểm giao
nhỏ|phải|Một bữa sáng kiểu Âu với [[bánh mì, trứng ốp la, thịt xông khói, nước cam, cà phê hòa tan]] phải|Một bữa ăn sáng truyền thống tại một [[Ryokan ở Kyoto. Các món ăn gồm