✨Niketas Choniates

Niketas Choniates

Niketas Choniates (, khoảng 1155 – 1217), có họ là Akominatos (Ἀκομινάτος), là một quan chức và sử gia Đông La Mã gốc Hy Lạp – giống như anh trai Mikhael Akominatos, người cùng với ông rời khỏi quê quán của họ là Chonae (từ đó mới có biệt danh "Choniates" nghĩa là "xuất thân từ Chonae") để lên kinh đô Constantinopolis học thành tài. Niketas để lại cho hậu thế một quyển sử kể về Đế quốc Đông La Mã trong giai đoạn từ năm 1118 đến năm 1207.

Tiểu sử

Niketas Akominatos chào đời trong một gia đình giàu có vào khoảng những năm 1150 ở Phrygia trong thành phố Chonae (nay nằm gần Honaz của Thổ Nhĩ Kỳ). Giám mục Niketas thành Chonae đã làm lễ rửa tội và đặt tên cho đứa trẻ sơ sinh; sau này ông được gọi bằng cái tên "Choniates" dựa theo nơi sinh của mình. Năm lên chín tuổi, ông cùng với người anh Mikhael được cha phái đến Constantinopolis tiếp thu một nền giáo dục hàng đầu nơi chốn kinh kỳ. Anh trai của Nikitas là người đã có ảnh hưởng lớn đến ông trong những giai đoạn đầu đời.

Ban đầu ông đảm nhiệm công việc trong cơ quan dân sự và giữ các chức vụ quan trọng dưới thời các hoàng đế Angelos (trong số đó có cả chức Đại Pháp quan hay Quan Chưởng ấn) và là thống đốc quân khu (thema) xứ Philippopolis trong một thời kỳ nguy ngập. Sau vụ cướp phá kinh hoàng thành Constantinopolis trong cuộc Thập tự chinh thứ tư vào năm 1204 ông trốn thoát được tới Nicaea, phụng sự triều đình của Hoàng đế Nicaea Theodoros I Lascaris, và đem hết sức lực cống hiến cho văn chương học thuật. Ông mất khoảng năm 1215–17.

Tác phẩm chính của ông là bộ Sử ký, gồm 20 quyển, bao quát thời kỳ lịch sử đầy biến động từ năm 1118 đến năm 1207. Mặc dù có phong cách hoa mỹ, giá trị của nó còn nằm ở chỗ ghi chép lại (với tất cả sự công minh) các sự kiện mà ông tận mắt chứng kiến hay nghe ngóng từ một nguồn tin đầu tiên (dù ông có cân xứng với nhà sử học Hy Lạp đương thời là Ioannes Kinnamos). Phần thú vị nhất của bộ sử này là những đoạn mô tả về sự chiếm đóng Constantinopolis vào năm 1204, để biết thêm chi tiết có thể tìm đọc các tác phẩm của Geoffroi de Villehardouin và Paolo Rannusio về cùng chủ đề.

Trong bài tiểu luận nhan đề Về các bức tượng bị người Latinh phá hủy là mối quan tâm đặc biệt của nhà khảo cổ học và sử gia nghệ thuật. Riêng về tác phẩm thần học của ông có tựa là (Thesaurus Orthodoxae Fidei), dù còn tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh trong bản thảo, chỉ được xuất bản một phần. Đây là một trong những nguồn sử liệu đáng tin cậy nhất đối với các nhà văn và môn đồ dị giáo của thế kỷ 12.

Ảnh hưởng văn hóa

Cuốn tiểu thuyết Baudolino của Umberto Eco lấy bối cảnh một phần tại kinh thành Constantinopolis trong suốt cuộc Thập tự chinh đẫm máu. Người anh hùng hư cấu, Baudolino, đã ra tay giải cứu Niketas suốt vụ cướp phá Constantinopolis, rồi sau đó bắt đầu tâm sự về cuộc đời của mình cho Niketas.

Niketas là nhân vật chính trong cuốn sách kể về vụ án mạng huyền bí của nhà văn Alan Gordon có tựa đề A Death in the Venetian Quarter (New York: St. Martin's Minotaru, 2002).

Ấn bản và bản dịch

Nghiên cứu

  • Βασιλικοπούλου, Ἁγνή. «Ἀνδρόνικος ὁ Κομνηνὸς καὶ Ὀδυσσεύς», Ἐπετηρὶς Ἑταιρείας Βυζαντινῶν Σπουδῶν 37 (1969) 251–259. A seminal work on Choniates' use of Homer.
  • Brand, Charles M. Byzantium Confronts the West, 1968 (ISBN 0751200530).
  • Harris, Jonathan, Byzantium and the Crusades, Bloomsbury, 2nd ed., 2014. ISBN 978-1-78093-767-0
  • Harris, Jonathan. 'Distortion, divine providence and genre in Nicetas Choniates' account of the collapse of Byzantium 1180–1204', Journal of Medieval History, vol. 26 (2000) 19–31.
  • Simpson & Efthymiadis (edd.). _[https://books.google.com/books?id=PgVXVNfU_swC&printsec=frontcover#v=onepage Niketas Choniates: A Historian and a Writer]_, 2009, ISBN 978-954-8446-05-1
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Niketas Choniates** (, khoảng 1155 – 1217), có họ là **Akominatos** (Ἀκομινάτος), là một quan chức và sử gia Đông La Mã gốc Hy Lạp – giống như anh trai Mikhael Akominatos, người cùng với
**Mikhael Choniates** (hay **Akominatos**) () (_khoảng_ 1140 – 1220), là nhà văn và giáo sĩ Đông La Mã gốc Hy Lạp, sinh trưởng trong một gia đình giàu sang tại Chonae (nay là thành cổ
**Eustathios thành Thessaloniki** (; khoảng 1115 – 1195/6) là học giả Đông La Mã gốc Hy Lạp và là Tổng giám mục Thessaloniki. Ông trở nên nổi tiếng vì là chứng nhân đương thời tường
**Anna Komnene** (, _Ánna Komnēnḗ_; 1 tháng 12, 1083 – 1153), thường được Latinh hóa thành **Anna Comnena**, là một công chúa, học giả, bác sĩ, quản lý bệnh viện và nhà sử học Đông
**Kaykhusraw I** (Ghīyāth al-Dīn Kaykhusraw bin Qilij Arslān; ) là sultan nhà Seljuk của Rum, là người con thứ 11 của Kilij Arslan II. Sau khi Kilij Arslan qua đời năm 1192, Kaykhusraw và các
**Piroska của Hungary**, sau gọi là **Eirēnē**, (1088 – 13 tháng 8 năm 1134) là một Hoàng hậu của Đế quốc Đông La Mã. Bà là vợ của Hoàng đế Iōannēs II Komnēnos thuộc triều
**Nikolaos Kanabos** được hội đồng nguyên lão, các linh mục và dân chúng Constantinopolis bầu làm Hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã trong cuộc Thập tự chinh thứ tư vào ngày 25 hoặc
**Alexios IV Angelos** () (kh. 1182 – 8 tháng 2, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 8 năm 1203 đến tháng 1 năm 1204. Ông là con trai của Hoàng đế Isaakios
**Konstantinos Laskaris** (Hy Lạp _Κωνσταντίνος Λάσκαρης_) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì được vài tháng từ năm 1204 đến đầu năm 1205. Đôi lúc ông được gọi là "Konstantinos XI", một số hiệu
**Geoffroi de Villehardouin** (1160 – khoảng 1212) là một hiệp sĩ và sử gia đã tham gia và ghi chép lại cuộc Thập tự chinh thứ tư. Ông được coi là một trong những nhà
**Trận Pisidia** (còn được biết đến với tên **trận chiến Antioch trên dòng Meander**, hay trận **Alaşehir**) là một cuộc đụng độ quân sự gần Pisidia giữa quân đội của Đế quốc Nicaea và Vương
**Cắm sừng** là một thuật ngữ chỉ việc phản bội, ngoại tình trong một mối quan hệ tình cảm. Trong sinh học tiến hóa, thuật ngữ này cũng được áp dụng cho những con đực