Nicaea (chữ Hi Lạp cổ: Νίκαια), hoặc viết là Nicæa, Nicea, Nikaia, là một thành phố của Hi Lạp cổ đại nằm ở phía tây bắc Anatolia, thành phố này là địa điểm triệu tập giám mục khai mạc Giáo hội nghị Nicaea lần thứ nhất và lần thứ hai (công đồng đại kết lần thứ nhất và lần thứ bảy trong lịch sử Giáo hội Cơ Đốc giáo thời kì đầu), bài Tín điều Nicaea trứ danh là nghị quyết được soạn thảo về việc tín ngưỡng Cơ Đốc giáo có nhiều điểm khác biệt, sau khi Giáo hội nghị Nicaea lần thứ nhất kết thúc. Ngoài ra, sau khi đế quốc Byzantine bị quân Thập tự lần thứ tư đánh chiếm vào năm 1204, Nicaea trở thành thủ đô của đế quốc Nicaea do Theodore I sáng lập, mãi cho đến người Byzantine đoạt lại Constantinople vào năm 1261.
Di chỉ của thành cổ này nằm ở İznik (tên thành phố İznik nghĩa là "bắt nguồn từ Nikaia"), thành phố của Thổ Nhĩ Kì thời hiện đại, nó toạ lạc ở trong bồn địa phì nhiêu màu mỡ, phía đông của hồ İznik, phía bắc và phía nam lấy dãy núi làm ranh giới, bức tường thành phía tây xây dựng dọc theo bờ hồ, thiết kế của thành trì Nicaea không những phòng ngừa các cuộc tấn công đến từ trên hồ lại còn khiến cho quân địch khó cắt đứt đường tiếp viện của thành phố. Do diện tích của hồ tương đối rộng lớn cho nên lực lượng vây đánh không dễ gì phong toả thành phố từ đất liền, hơn nữa vì phạm vi của thành phố đủ lớn nên dù cho quân địch toan tính vận chuyển vũ khí đánh thành từ bờ ra bến cảng cũng vô cùng khó khăn.
Bốn mặt của thành cổ Nicaea được bao quanh bởi bức tường thành dài đến 5 kilômét, cao khoảng 10 mét, những bức tường cao này cùng lúc bị hai con kênh vây quanh, ngoài ra có hơn 100 lầu tháp phân bố ở các địa điểm khác nhau, một số cổng thành nằm sát phần đất liền là ngõ vào duy nhất của thành phố.
Ngày nay, Nicaea là một danh lam thắng cảnh được du khách ưa thích, mặc dù rất nhiều tường thành địa phương của nó đều đã bị đường lộ cắt xuyên qua, nhưng phần lớn di chỉ của thời kì đầu vẫn còn bảo tồn đến nay.
Bối cảnh lịch sử
Nicaea là một thành phố nằm ở tỉnh Bursa, Thổ Nhĩ Kì, ở vào bờ đông của hồ İznik, cách Istanbul khoảng 90 kilômét về phía đông nam. Từng là thủ đô của Sultan quốc Rum, đế quốc Nicaea và đế quốc Ottoman (năm 1331, Orhan I chiếm đóng thành phố này, bỗng chốc trở thành thủ đô của đế quốc Ottoman).
Lịch sử thời kì đầu
Thành cổ Nicaea xây dựng rất sớm, tương truyền rằng nó thuộc lãnh thổ của Thần rượu Dionysus hoặc bán thần Heracles. Một giả thuyết nói rằng nó được thiết lập vào thời kì Vương quốc Mecedonia cổ đại, tên gọi lúc đó là Ancore (Ἀγκόρη).
Tốp di dân đầu tiên của thành phố là người Mercia, sau đó Antigonus I thống trị khu vực này, đồng thời tái thiết thành phố này vào năm 315 TCN, lúc đó gọi là Antigoneia (Ἀντιγονεία).
Antigonus I sau khi thất bại trong Chiến dịch Ipsus (năm 306 TCN) đã mất đi phần lớn lãnh thổ, và lại qua đời vào năm 301 TCN. Từ sau đó khu vực này bị Lysimachus thống trị, để kỉ niệm Nicaea (en) - vợ ông, chết sớm mà đem thành phố này đặt tên là Nicaea.
Thời kì La Mã
Năm 72 TCN nó thuộc hành tỉnh Bithynia, nước Cộng hoà La Mã, về sau Bithynia và Pontus sáp nhập thành hành tỉnh Bithynia và Pontus (en),
Năm 123, Hoàng đế La Mã Hadrian thị sát Nicaea sau trận động đất, rồi lại tái thiết Nicaea một lần nữa. Nicaea mới trở thành bức tường thành có hình đa giác dài khoảng 5 kilômét. Mặc dù bức tường thành mãi đến thế kỉ III mới hoàn thành nhưng tường thành mới hoàn toàn không thể cứu vãn người Nicaea, năm 258 Nicaea bị người Goth sau khi cướp sạch lại đốt phá lần nữa.
Song, đi cùng với việc thiết lập thủ đô mới Constantinople và hai trận động đất vào năm 363 và năm 368, Nicaea lại suy bại, mãi cho đến thời kì Justinian I mới được khôi phục.
Thời kì Ottoman
nhỏ|Nhà thờ Hồi giáo Hagia Sophia, İznik, ảnh chụp vào năm 2012.
Năm 1331, Orhan I - thủ lĩnh Ottoman (cách gọi sultan mãi đến năm 1383 mới bắt đầu sử dụng), đã đánh chiếm Nicaea, và tạm thời đóng đô tại nơi đây, năm 1335 dời đến Bursa. Kể từ đó Nicaea được gọi là İznik, ngày 29 tháng 5 năm 1453, Mehmed II - sultan của đế quốc Ottoman, sau khi đã đánh chiếm Constantinople, İznik càng mất đi tầm quan trọng của nó.
Vào thế kỉ XV - XVII, vì được sự ủng hộ của hoàng thất Ottoman (en), cùng với việc kiến thiết đế quốc quy mô lớn vào thời kì đầu khiến cho nhu cầu tăng lên, İznik trở thành trung tâm sản xuất gạch nung và đồ gốm quan trọng ở Thổ Nhĩ Kì. Trong đó nhà thờ Hồi giáo Rüstem Pasha và hoàng cung Topkapı đều sử dụng số lượng lớn gạch men sứ có nguồn gốc từ İznik. Vào thời kì này, bởi vì ngành công nghiệp gốm sứ ở İznik hưng thịnh cho nên chỗ này đã sản xuất đồ gốm chất lượng cao, như bát đĩa, giá cắm nến, bình chai,... Phong cách và hoa văn của những đồ gốm này bị đồ sứ của triều Nguyên và triều Minh, Trung Quốc ảnh hưởng.
Cuối thế kỉ XVI, do đánh mất sự ủng hộ của hoàng thất, cộng thêm số lượng đồ sứ Trung Quốc được đế quốc Ottoman nhập khẩu vào giữa thế kỉ XVI tiếp tục gia tăng, đều khiến cho nhu cầu và chất lượng của đồ gốm İznik dần dần giảm sút. Đồ gốm İznik cuối cùng được truy nguồn là đĩa sứ có từ năm 1678, khắc chữ Hi Lạp thể uncial.
Năm 1921, phần lớn khu đô thị của İznik bị phá hoại bởi Chiến tranh Hi Lạp - Thổ Nhĩ Kì.
Nhân vật nổi tiếng
Hipparchus (190 TCN - 120 TCN, chữ Hi Lạp: Ίππαρχος) là nhà thiên văn học vĩ đại nhất của Hi Lạp cổ đại.
Cassius Dio (165 - 235, chữ Hi Lạp: Δίων Κάσσιος) là nhà chính trị và nhà lịch sử học của La Mã cổ đại.
Sporus (240 - 300, chữ Hi Lạp: Σπόρος) là nhà số học và nhà thiên văn học của La Mã cổ đại.
George Pachymeres (1242 - 1310, chữ Hi Lạp: Γεώργιος Παχυμέρης) là nhà sử học, nhà triết học và tác giả tạp văn của đế quốc Byzantine.
Chú ý
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nicaea** (chữ Hi Lạp cổ: _Νίκαια_), hoặc viết là **Nicæa**, **Nicea**, **Nikaia**, là một thành phố của Hi Lạp cổ đại nằm ở phía tây bắc Anatolia, thành phố này là địa điểm triệu tập
**Bướm đêm đại bàng Địa Trung Hải** (_Hyles nicaea_) là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. ## Phân phối Chúng được tìm thấy ở phía nam Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mặc
**Cuộc bao vây Nicaea** diễn ra từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6 năm 1097, là một trận chiến trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. ## Bối cảnh Thành Nicaea (Iznik),
**Tín biểu Nicea**, **Bản tín điều Nicea** hay **Kinh tin kính Nicea** (tiếng Latinh: _Symbolum Nicaenum_) là kinh tuyên xưng đức tin của Giáo hội Công giáo. Có hai kinh tin kính mang tên Nicea.
**_Eulepidotis nicaea_** là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
**Trận Pelagonia** đã diễn ra vào tháng 9 năm 1259, giữa Đế chế Nicaea và liên quân của Lãnh địa Bá vương Epirus, Sicilia và Công quốc Achaea. Đây là một sự kiện quyết định
**Ioannes III Doukas Vatatzes**, (, _Iōannēs III Doukas Vatatzēs_, khoảng 1193, Didymoteicho – 3 tháng 11, 1254, Nymphaion), là Hoàng đế Nicaea trị vì từ năm 1222 đến năm 1254. Kế vị ông là người
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Ioannes IV Doukas Laskaris** (΄ Δούκας Λάσκαρις, _Iōannēs IV Doukas Laskaris_) (25 tháng 12, 1250 – khoảng 1305) là Hoàng đế Nicaea từ ngày 18 tháng 8 năm 1258 đến ngày 25 tháng 12 năm
**Cassius Dio** hay **Dio Cassius** (; ) là chính khách và nhà sử học La Mã gốc Hy Lạp. Ông đã xuất bản 80 tập của bộ sử về thời La Mã cổ đại, bắt
**Công đồng Nicea thứ nhất** là công đồng gồm những Giám mục Kitô giáo được triệu tập tại Nicea thuộc xứ Bithini (ngày nay là xứ Iznik của Thổ Nhĩ Kỳ) bởi Hoàng đế La
Nữ hoàng Irene và hoàng đế Konstantinos VI tại Công đồng đại kết thứ bảy **Công đồng Nixêa II** là một công đồng đại kết do Nữ hoàng Irene triệu tập vào năm 787 dưới
**Trận Pisidia** (còn được biết đến với tên **trận chiến Antioch trên dòng Meander**, hay trận **Alaşehir**) là một cuộc đụng độ quân sự gần Pisidia giữa quân đội của Đế quốc Nicaea và Vương
**Thập tự chinh Thứ nhất** (1095 - 1099) là cuộc Thập tự chinh đầu tiên, được phát động vào năm 1095 bởi Giáo hoàng Urban II với mục đích chiếm lại những vùng đất đã
**Đế quốc Nikaia** là đế quốc lớn nhất trong số ba nhà nước kế thừa của đế quốc Đông La Mã, do các quý tộc Đông La Mã bỏ chạy khỏi Constantinopolis bị chiếm đóng
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,
**Giáo hội nghị**, hoặc gọi là **Công đồng đại kết**, gọi tắt **Công đồng**, là hội nghị giám mục toàn thế giới có ý nghĩa đại biểu phổ biến trong Cơ Đốc giáo truyền thống,
**Cuộc tái chiếm Constantinopolis năm 1261** được quân lính của Đế quốc Nicaea, nhà nước kế thừa mạnh mẽ nhất của Đông La Mã thực hiện. Qua đó, Đế quốc Đông La Mã đã được
**Cuộc tái chiếm Constantinopolis năm 1261** được quân lính của Đế quốc Nicaea, nhà nước kế thừa mạnh mẽ nhất của Đông La Mã thực hiện. Qua đó, Đế quốc Đông La Mã đã được
**Cuộc bao vây Xerigordos** (1096) là một trận đánh quan trọng bắt đầu Cuộc Thập Tự Chinh Nhân Dân, một tiền đề cho Cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất. Thập tự quân khoảng 6.000
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Trang sơ lược này cung cấp thông tin khái quát về Giáo hội Công giáo – hệ phái có lượng tín đồ lớn nhất trong Kitô giáo. Người đọc có thể dùng trang này như
**Đế quốc Trapezous** là một chế độ quân chủ phát triển mạnh trong suốt thế kỷ 13 đến thế kỷ 15, bao gồm góc đông bắc Anatolia và phía nam Crimea. Được hình thành từ
Các **cuộc chiến tranh Đông La Mã - Ottoman** là một loạt các cuộc xung đột mang tính quyết định giữa một quốc gia mới nổi của người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và một Đế
**Lịch Gregorius**, hay **lịch Gregory**, còn gọi là **Tây lịch**, **Công lịch**, **Dương lịch**, là lịch được sử dụng ở hầu hết các nơi trên thế giới. Nó được đặt theo tên của Giáo hoàng
**_Hyles_** là một chi bướm đêm thuộc họ Sphingidae. ## Các loài *_Hyles annei_ - (Guerin-Meneville 1839) *_Hyles apocyni_ - (Shchetkin 1956) *_Hyles biguttata_ - (Walker 1856) *_Hyles calida_ - (Butler 1856) *_Hyles centralasiae_ -
Cuộc **Thập Tự Chinh Nhân Dân** (hoặc **Thập tự chinh của dân chúng**), còn được gọi là Cuộc **Thập tự chinh của người nghèo**, Cuộc **Thập tự chinh Nông dân** là một loạt các cuộc
**Alexios III Angelos** () (khoảng 1153 – 1211) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 3 năm 1195 cho đến ngày 17/18 tháng 7 năm 1203. Là một thành viên có mối liên hệ
nhỏ|phải|_Chúa Kitô Toàn năng_, tranh vẽ [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6, bức linh ảnh cổ xưa tại Tu viện Thánh Catarina (Sinai).]] **Giáo hội Chính thống giáo Đông phương**, tên chính thức là **Giáo
**Lysimachos** (tiếng Hy Lạp: **Λυσίμαχος**, tiếng Anh: _Lysimachus_; 360 TCN – 281 TCN) là một vị tướng Macedonia và là người kế thừa của Alexandros Đại đế năm 306 TCN để thống trị Thrace, Tiểu
**Trận chiến Poimanenon** hay còn gọi là **Poemanenum** diễn ra vào đầu năm 1224 (hoặc có thể là cuối năm 1223) giữa hai trong số các lãnh địa kế thừa của Đế quốc Đông La
**Hội nghị Carthage** (chữ Anh: _Councils of Carthage_), đề cập đến một loạt hội nghị giáo hội được tổ chức tại vùng Carthage, châu Phi vào thế kỉ III, IV và V trong lịch sử
**Hipparchus xứ Nicaea** (; , _Hipparkhos_; TCN) là một nhà thiên văn học, nhà địa lý và nhà toán học người Hy Lạp. Ông được coi là người sáng lập ra lượng giác học, nhưng
Vào thuở Kitô giáo sơ khai, một tín hữu có thể vẽ một cung trên đất khi gặp một người khác, nếu chia sẻ cùng niềm tin, người này sẽ vẽ tiếp một cung nữa
Tranh "Victory over the Grave" (Chiến thắng sự chết), của Bernhard Plockhorst, thế kỷ 19 **Lễ Phục sinh** thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Maria**, **Đức mẹ Maria**(Công giáo La Mã), hoặc gọi **Mary, mẹ của Chúa Jesus**, **trinh nữ Mary**(Tin Lành), là một phụ nữ người Do Thái quê ở Nazareth, thuộc xứ Galilea, sống trong khoảng những
**Trận Dorylaeum** là trận đánh trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất diễn ra vào ngày 1 tháng 7 năm 1097, giữa Thập tự quân và người Thổ Seljuk, trận đánh diễn ra ở gần
**Andronikos III Palaiologos**, Latinh hóa **Andronicus III Palaeologus** (; 25 tháng 3, 1297 – 15 tháng 6, 1341) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1328 đến 1341, sau khi trở thành đối thủ
**Chiến tranh Đông La Mã-Bungaria** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đông La Mã và Bulgaria bắt đầu từ khi những người Bulgars đầu tiên định cư tại Bán đảo Balkan trong thế
nhỏ|linh ảnh [[Giê-su|Chúa Giê-xu Ki-tô do hoạ sĩ nổi tiếng Nga Andrei Rublev vẽ.]] **Linh ảnh**, **ảnh thánh**, **thánh tượng**, hay **ảnh tượng**, (tiếng Anh: _icon_, chữ Hi Lạp: _Αγιογραφία_, chữ Nga: _Икона_, chữ Hán:
**Isaakios I Komnenos** (, _Isaakios I Komnēnos_; k. 1007– 1060/61) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1057 đến năm 1059, thành viên tại vị đầu tiên của nhà Komnenos. Dưới thời kỳ trị
**Arsinoe I **(, 305 - khoảng sau 248 TCN) là một công chúa người Hy Lạp có gốc Macedonia và Thessaly. Bà là con gái thứ hai và cũng là người con út của Vua
**Niketas Choniates** (, khoảng 1155 – 1217), có họ là **Akominatos** (Ἀκομινάτος), là một quan chức và sử gia Đông La Mã gốc Hy Lạp – giống như anh trai Mikhael Akominatos, người cùng với
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**_Stato da Mar_** hoặc **_Domini da Mar_** (Hải dương lãnh địa) là tên gọi được đặt cho các thuộc địa hải ngoại và hàng hải của nước Cộng hòa Venezia, bao gồm cả Istria, Dalmatia,