✨Nhóm Himalia

Nhóm Himalia

phải|nhỏ|300x300px|Biểu đồ này so sánh các [[Tham số quỹ đạo và kích cỡ tương đối của các thành viên của nhóm Himalia. Trục hoành biểu thị khoảng cách trung bình tới Sao Mộc, trục tung biểu thị độ nghiêng quỹ đạo, và các vòng tròn là kích cỡ tương đối của các vệ tinhs.]] phải|nhỏ|375x375px|Biểu đồ này biểu thị mọi vệ tinh dị hình của Sao Mộc. Nhóm Himalia là các vệ tinh xếp cùng nhau gần đỉnh của biểu đồ. Vị trí của một vật thể ở trục hoành biểu thị khoảng cách của nó với Sao Mộc. Trục tung biểu thị [[độ nghiêng quỹ đạo. Độ lệch tâm quỹ đạo được biểu thị bởi các đường kẻ màu vàng chỉ khoảng cách tối đa và tối thiểu từ Sao Mộc. Các vòng tròn miêu tả kích cỡ của vật thể khi so sánh với nhau.]] Nhóm Himalia là một nhóm các vệ tinh dị hình của Sao Mộc chuyển động cùng chiều chuyển động với Sao Mộc, chuyển động theo một quỹ đạo giống với vệ tinh Himalia và được cho rằng có cùng một nguồn gốc.

Các vệ tinh của nhóm đó là (tính với khoảng cách tăng dần từ Sao Mộc):

  • Leda
  • Himalia (là vệ tinh lớn nhất trong nhóm, cũng là vệ tinh được lấy tên để đặt tên cho nhóm)
  • Lysithea
  • Elara
  • Dia (ứng cử viên)

Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) dành riêng những tên kết thúc bằng -a cho vệ tinh trong nhóm này để ám chỉ sự chuyển động ngược của các vệ tinh này có mối liên hệ với Sao Mộc: hành tinh trung tâm mà chúng chuyển động xung quanh.

Đặc điểm và nguồn gốc

Những vệ tinh trong nhóm Himalia có bán trục lớn (khoảng cách từ Sao Mộc) trong khoảng 11.15 đến 11.75 Gigamét, có độ nghiêng quỹ đạo trong khoảng 26.6° từ 28.3°, và có độ lệch tâm quỹ đạo trong khoảng 0.11 và 0.25. Trên quan sát thực tế, nhóm này rất đồng nhất, tất cả các vệ tinh đều phản xạ một màu trung tính (chỉ mục màu B−V = 0.66 và V−R = 0.36), giống với các thiên thạch loại C. Làm hạn chế sự tán sắc của các thông số quỹ đạo và sự đồng nhất của phổ điện từ, có giả thiết cho rằng nhóm này là tàn dư từ sự tan vỡ của một thiên thạch từ vành đai tiểu hành tinh chính. Bán kính của thiên thạch lớn này có thể vào khoảng 89 km, chỉ lớn hơn Himalia một chút, vẫn còn lại chính xác 87%. Điều này chỉ ra rằng thiên thạch lớn không bị ảnh hưởng là bao.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|300x300px|Biểu đồ này so sánh các [[Tham số quỹ đạo và kích cỡ tương đối của các thành viên của nhóm Himalia. Trục hoành biểu thị khoảng cách trung bình tới Sao Mộc, trục tung
**Himalia** ( _hy-**MAY**-lee-ə_ hoặc _hi-**MAH**-lee-ə_; ) là vệ tinh dị hình lớn nhất của Sao Mộc. Xét toàn bộ thì nó là vệ tinh Jovian lớn thứ sáu về
**Elara** ( **_EL**-ər-ə_; ) là một vệ tinh dị hình của Sao Mộc, chuyển động cùng chiều với sao Mộc. Nó được phát hiện ra bởi Charles Dillon Perrine tại đài quan
**Ersa** , còn được gọi là **Jupiter LXXI,** ban đầu được gọi là **S/2018 J 1,** là một vệ tinh tự nhiên của sao Mộc. Nó được phát hiện bởi Scott S. Sheppard và nhóm
**Lysithea** ( _ly-**SITH**-ee-ə_, _li-**SITH**-ee-ə_; ) là một vệ tinh dị hình của Sao Mộc chuyển động cùng chiều với Sao Mộc. Nó được phát hiện ra bởi Seth Barnes
**Leda** (), còn được biết tới với cái tên là ****, là một vệ tinh dị hình chuyển động cùng hướng với Sao Mộc. Nó được phát hiện bởi Charles T. Kowal tại Đài thiên
**Dia** (), được biết đến với cái tên **Jupiter LIII**, là vệ tinh dị hình thứ hai tính từ ngoài vào của Sao Mộc, chuyển động cùng chiều với sao Mộc. Từng tạm thời được
**Pandia** , còn được biết là **Jupiter LXV**, ban đầu được gọi là **S/2017 J 4**, là một vệ tinh tự nhiên bên ngoài của Sao Mộc, đường kính là 3 km, bán kính là 1,5 km.
phải|Sao Mộc và bốn vệ tinh lớn nhất của nó Đến tháng 2 năm 2023 đã có 95 vệ tinh của Sao Mộc được khám phá và được chia ra làm 7 nhóm (dù quỹ
nhỏ|299x299px| Một số vệ tinh tự nhiên (với quy mô [[Trái Đất). 19 vệ tinh đủ lớn để có hình cầu và chỉ Titan mới có bầu khí quyển riêng. ]] Các vệ tinh tự
**Themisto** (; tiếng Hy Lạp: _Θεμιστώ_), cũng được biết đến với cái tên ****, là một vệ tinh dị hình của Sao Mộc chuyển động cùng chiều với Sao Mộc. Được phát hiện vào năm
**Pasiphae** , trước đây được viết là **Pasiphaë**, là một vệ tinh tự nhiên dị hình chuyển động nghịch hành của Sao Mộc. Nó được khám phá ra vào năm 1908 bởi Philibert Jacques Melotte