Nguyễn Văn Trắm hoặc Nguyễn Văn Chẩm () (? - 1835) nguyên là lính Hồi lương thuộc quân đội triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1833, ông theo Lê Văn Khôi làm cuộc nổi dậy ở thành Gia Định (1833-1835). Khi đại cục thất bại, ông bị bắt và đã tự sát trên đường đi thụ hình.
Tiểu sử sơ lược
Không rõ thân thế ông, chỉ biết quê ông ở Hưng Yên, vì phạm tội, được Tả quân Lê Văn Duyệt nhận về sung vào đội lính Hồi lương ở thành Phiên An (Gia Định).
Theo làm binh biến
Đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (tức 5 tháng 7 năm 1833), vì bất mãn, Lê Văn Khôi (quê Cao Bằng, con nuôi Lê Văn Duyệt) đã cùng với 27 người lính hồi lương trong đó có Nguyễn Văn Trắm, giết chết Bố chính Bạch Xuân Nguyên và Tổng đốc Nguyễn Văn Quế...
Được phần nhiều quân lính ở Phiên An ủng hộ, Lê Văn Khôi bèn chiếm lấy thành, tự xưng là Đại nguyên suý, phong chức cho những người đồng mưu để cùng khởi binh chống lại nhà Nguyễn. Khi ấy, Nguyễn Văn Trắm được làm Tiền quân thống lĩnh.
Nghe tin thành Phiên An và sáu tỉnh Nam Kỳ đều đã mất vào tay bị quân nổi dậy, vua Minh Mạng liền sai năm tướng là: Tống Phước Lương, Phan Văn Thuý, Trần Văn Năng, Nguyễn Xuân, Trương Minh Giảng cùng thống lĩnh quân thủy bộ và binh tượng tiến gấp vào đánh đuổi. Khoảng trung tuần tháng 7 năm 1833, cả ba đạo đại quân xuất phát từ Huế đã đến Gia Định, rồi tổ chức vây hãm thành Phiên An. Đang lúc đó Trung quân Thái Công Triều, một cộng sự tài giỏi của Lê Văn Khôi, bất ngờ đầu hàng quân triều, rồi dẫn quân đi đánh lại. Quân Xiêm nhân lời cầu viện kéo sang cũng bị quân triều đánh tan.
Đầu năm 1834, Lê Văn Khôi chết vì bệnh phù thũng. Con ông là Lê Văn Cù (8 tuổi) lên nắm quyền nguyên suý. Tuy nhiên, mọi việc trong ngoài, đều do tướng Nguyễn Văn Trắm quyết định.
Minh Mạng ra lệnh: "Giáp Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], mùa hạ, tháng tư... " quân Nguyễn bắt người con của Nguyễn Văn Chẩm là Nguyễn Văn Trịnh ra kêu gọi ông đầu hàng. Ông sai sứ là Trần Đình Tam ra xin xá tội sẽ hàng. Các tướng trong thành Phiên An là Chương và Long ngầm mang thư ra ngoài xin làm nội ứng cho quân Nguyễn, bị ông Chẩm phát hiện và giết hết. Sau 3 ngày ông vẫn không ra hàng, con ông và Trần Đình Tam bị xử tử lăng trì... Tháng 6, lính quân Nguyễn là Nguyễn Văn Điểm bị quân Phiên An bắt vào thành: "... Chẩm dỗ, bảo phải nói dối [với người trong thành] rằng : ở ngoài thành quan quân có ít, giặc Xiêm lại đến, ngoài Bắc giặc cướp nổi lên và những người trong thành ra thú đều bị xử tử cả. Như vậy là để cho mọi người đều nghi hoặc về ta [triều đình]. Kịp lúc tên Chẩm họp đồ đảng để tra xét thì Văn Điểm đều nói trái lại, chỉ đáp lại bằng lời thẳng thắn, và nói : “Ta đã bị bắt, há tiếc gì cái chết ? Cho nên bảo thật lũ người trong thành mau mau tìm lấy đường sống, thà trái ý giặc mà chết còn được hiển thần, chẳng hơn theo giặc, chết làm ma quỷ hay sao ?”. Chẩm cả giận, giết chết Điểm, mổ gan, xẻo thịt mà ăn." ... Phạm Hữu Nguyên có ngầm ra hàng, bị phát giác, bị Chẩm giết.
Mặc dù tình thế bất lợi, nhưng nhiều lần quân triều dùng lực lượng lớn tấn công đều bị thiệt hại nặng mà vẫn không hạ được thành. Vì vậy, các tướng lĩnh phía Nguyễn vẫn chọn giải pháp bao vây là chính. Đợi cho đến khi phía đối phương: lương thực và đạn dược đã vơi cạn, bệnh dịch tả làm chết rất nhiều người, tinh thần quân dân đã ly tán và hoang mang cực độ; thì bộ chỉ huy quân Nguyễn mới quyết định tấn công.
Theo sử liệu thì cuộc đánh phá lần này do tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy. Trước hết, ông chia quân ra thành 8 mũi, rồi cho súng lớn súng nhỏ bắn vào thành trong bốn ngày đêm để uy hiếp đối phương. Đạn từ trong thành cũng bắn ra không ngớt. Tuy nhiên, các cánh quân triều vẫn lên tiến được. Đến khi quân nổi dậy đã kiệt sức, quân triều liền xông lên phá cửa rồi như say máu họ xông vào chém giết không trừ đàn bà, con nít...
Giữa giờ phút lâm nguy ấy, Tiền quân Nguyễn Văn Trắm vẫn liều chết đốc quân ra chống cự. Nhưng chỉ một lúc sau thì thành bị hạ, ông bị bắt cùng với già trẻ trai gái cả thảy 1.831 người . Hôm ấy là ngày 16 tháng 7 năm Ất Mùi (tức 8 tháng 9 năm 1835).
Bị bắt và tự sát
Theo giáo sư Nguyễn Phan Quang, thì Nguyễn Văn Trắm cùng năm trọng phạm là Lê Văn Cù, giáo sĩ Marchand, Bốn Bang , Nguyễn Văn Hoành, Nguyễn Văn Bột đều bị giam vào cũi sắt, giải về Huế xử lăng trì. Nhưng khi đến Quảng Ngãi, theo Liệt truyện thì Nguyễn Văn Trắm đã tự móc cổ họng chết. Sau đó, thân ông bị phân thây ra từng miếng và chặt đầu bỏ vào hòm đưa về. Theo Thực lục thì:
Ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16 (1835), mùa thu, tháng 8, ... Tướng quân, Tham tán ở quân thứ Gia Định trích phái Tiền vệ Ban trực và Hậu vệ Thần cơ áp giải bọn nghịch Chẩm và thủ cấp nghịch Khôi về Kinh... Khi đến tỉnh Quảng Ngãi, nghịch Chẩm lấy xích thắt cổ tự tử. Ra lệnh cho phanh thây, chặt đầu Chẩm, đóng hòm đưa về Kinh. Những người coi việc áp giải là bọn Tôn Thất Tê đều bị cách chức ; Bố chính Tôn Thất Bạch và án sát Đặng Kim Giám ở Quảng Ngãi đều bị giáng 1 cấp.
Thông tin thêm
Nguyễn Văn Trắm và tú tài Nguyễn Văn Hoành đều là bạn thân của Lê Văn Khôi, đều được phong tướng, và đều nổi tiếng là tay cừ khôi và ngang ngạnh nhất trong hàng ngũ quân nổi dậy. Cho nên người đời có câu:
:-Ngang như ông Hoành ông Trắm
:-Mấy cha đó, đâu cũng là ông Hoành, ông Trắm chi đây!
Tương truyền, trên đường giải về Huế, hai ông vẫn cười nói vang dậy. Và theo học giả Trương Vĩnh Ký thì bài thơ Mang Gông là do hai ông làm, chứ không phải của Thủ Khoa Huân.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôma Nguyễn Văn Trâm** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1942) là một giám mục người Việt, từng giữ chức giám mục phụ tá của Giáo phận Xuân Lộc (1992–2005), giám mục chính tòa tiên
**Nguyễn Văn Trắm** hoặc **Nguyễn Văn Chẩm** () (? - 1835) nguyên là lính _Hồi lương_ thuộc quân đội triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1833, ông theo Lê Văn Khôi làm cuộc
**Nguyễn Văn Trăm** (sinh năm 1959) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước. Trước khi giữ chức vụ này,
**Phêrô Nguyễn Văn Nho** (1937 – 2003) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông từng đảm nhận vai trò Giám mục phó của Giáo phận Nha Trang từ
**Phaolô Nguyễn Văn Hòa** (1931 – 2017) là một Giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma, đồng thời là một nhạc sĩ nhạc Công giáo. Ông từng giữ các vị trí giám
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Hải Trâm** (sinh năm 1975) là nữ chính trị gia, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao người Việt Nam. Bà hiện giữ chức vụ Phó Bí thư thường trực Tỉnh
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
**Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh** (sinh năm 1955) là một giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện giữ chức giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt. Trước đó, ông
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Văn Giáp** (1837 -1887), tục gọi là **Bố Giáp** (vì ông từng làm chức Bố chính tỉnh Sơn Tây), là một lãnh tụ và danh tướng trong phong trào Cần Vương ở vùng Tây
nhỏ|Nguyễn Văn Sâm **Nguyễn Văn Sâm** (27 tháng 9 năm 1898 -10 tháng 10 năm 1947) là một nhà báo và chính khách Việt Nam. Ông được vua Bảo Đại đề cử làm khâm sai
**Nguyễn Văn Kha** (1922–2018) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà
**Nguyễn Văn Bình** là một Sĩ quan cấp cao của Quân đội nhân dân Việt Nam, mang quân hàm Thiếu tướng. Ông từng giữ chức Phó Chánh Văn phòng Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm
**Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn** (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1952) là một giám mục Công giáo người Việt, hiện là giám mục chính tòa của Giáo phận Bà Rịa và Chủ tịch Uỷ ban
**Phaolô Nguyễn Thanh Hoan** (1932–2014) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam Ông từng đảm nhận nhiệm vụ giám mục tại Giáo phận Phan Thiết trong hai giai đoạn
**Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi**, hay còn được gọi là: **cuộc binh biến của Lê Văn Khôi**, **khởi nghĩa của Lê Văn Khôi**, **sự biến thành Phiên An**, là một cuộc nổi dậy
**Lê Văn Khôi** (chữ Hán: 黎文; ? – 1834) tên thật là **Bế - Nguyễn Nghê**, còn được gọi là **Hai Khôi**, **Nguyễn Hựu Khôi** (阮佑) hay **Bế Khôi**, là con nuôi của Lê Văn
**Đa Minh Nguyễn Chu Trinh** (sinh ngày 20 tháng 3 năm 1940) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông nguyên là giám mục chính tòa của Giáo phận Xuân Lộc, đảm trách
**Học phi Nguyễn Văn thị** (chữ Hán: 學妃阮文氏, ? - 1893), còn gọi là **Huy Thuận Học phi** (徽順學妃), là một phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức và là mẹ nuôi của Nguyễn
**Nguyễn Văn Tý** (5 tháng 3 năm 1924 - 26 tháng 12 năm 2019) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như _Dư âm_ đến
**Nguyễn Văn Ngợi** (4 tháng 2 năm 1900 - 16 tháng 3 năm 1988) là ngọc đầu sư của chi phái Cao Đài Tiên Thiên. Ông là một trong số những chức sắc Cao Đài
**Nguyễn Thanh Sơn** (5 tháng 11 năm 1910-9 tháng 1 năm 1996) là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Thứ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam, Đại tá
**Nguyễn Văn Thực** (chữ Hán: 阮文實, có tài liệu ghi là **Nguyễn Danh Thực**, 1631 - 1693) đỗ Thám Hoa năm 1659 đời vua Lê Thần Tông. ## Tiểu sử **Nguyễn Danh Thực** sinh năm
Tối ngày 1/7, tại Quảng trường Nguyễn Văn Linh (phường Phố Hiến), diễn ra chương trình nghệ thuật “Giai điệu quê hương – Niềm tin ngày mới” kỷ niệm 110 năm ngày sinh Tổng Bí
**Nguyễn Văn Đông** (15 tháng 3 năm 1932 – 26 tháng 2 năm 2018) nguyên là một sĩ quan bộ binh cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang
**Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật** (1926–2007) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Xuân Lộc (1988 –2004) và nguyên Chủ
**Phêrô Nguyễn Văn Hiếu** là một thầy giảng tử vì đạo dưới triều vua Minh Mạng, được Giáo hội Công giáo Rôma phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1783 tại giáo xứ
thumb|phải|kênh Nguyễn Văn Tiếp nhìn về hướng đông, đoạn gần Ủy ban nhân dân xã Phú Cường. **Kênh Nguyễn Văn Tiếp** hay còn gọi là **kênh Tháp Mười** là con kênh đào kết hợp sông
**Nguyễn Văn Vực** (1909–1952), tên thường gọi là **Tư Vực**, là một nhà cách mạng và chỉ huy quân sự Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ: Bí thư tỉnh ủy Thái Bình; Bí
**Đa Minh Nguyễn Văn Hạnh** (1772-1838) là một linh mục, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1772 tại làng Năng A, tỉnh Nghệ An. Sau
nhỏ|phải|Tượng Nguyễn Văn Bứa tại Chiến khu D **Nguyễn Văn Bứa** (1922–1986), bí danh **Hồng Lâm**, là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Tên của ông được đặt cho
**Emmanuel Nguyễn Văn Triệu** là một linh mục tử đạo dưới triều vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn, được Giáo hội Công giáo tuyên hiển thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1756 tại làng
**Mátthêu Nguyễn Văn Đắc** còn gọi là **Phượng** là một trùm họ, thầy lang tử vì đạo dưới triều vua Tự Đức, được Giáo hội Công giáo Rôma phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông
**Đa Minh Nguyễn Văn Xuyên**, OP (1786-1839), là một linh mục Công giáo Việt Nam dưới thời Minh Mạng và là một vị thánh tử đạo của Giáo hội Công giáo Việt Nam.. ## Tiểu
**Phêrô Nguyễn Văn Lựu** là một linh mục tử vì đạo, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1812 tại Gò Vấp, tỉnh Gia Định (nay
**Lôrensô Nguyễn Văn Hưởng** (1802-1856) là một linh mục, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1802 tại xứ Kẻ Sải (nay là Giáo xứ Tụy
**Nguyễn Bính** (tên thật là **Nguyễn Trọng Bính**; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Chu Văn An** (còn được gọi là **Trường Chu Văn An**, **Trường Bưởi**, **Trường Chu** hay trước đây là **Trường Trung học phổ thông Quốc gia Chu Văn An,**
**Lê Văn Duyệt** (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là **Tả Quân Duyệt**, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm** là một phong trào văn hóa mang xu hướng chính trị của một số văn nghệ sĩ, trí thức sống ở miền Bắc dưới chính quyền Việt Nam
**Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn** ( – **VNU-USSH**) là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Trụ sở chính của Trường đặt tại số