✨Nguyễn Thái Bạt

Nguyễn Thái Bạt

Nguyễn Thái Bạt (chữ Hán: 阮泰拔, 1504-1527) là một danh sĩ thời Lê sơ. Ông từng đỗ thủ khoa, Tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng giáp) khoa thi Canh Thìn (1520), niên hiệu Quang Thiệu thứ 5, đời vua Lê Chiêu Tông.

Thân thế

Ông sinh ngày 10 tháng 1 năm Giáp Tý (tức 26 tháng 1 năm 1504), tại xã Bình Lãng, tổng Ngọc Trục huyện Cẩm Giàng phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương, nay là thôn Bình Phiên xã Ngọc Liên huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Thân phụ là Nguyễn Văn Hanh, thân mẫu là Lê Thi Đạt, Ông sinh trưởng trong gia đình nho sĩ lâu đời, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, tư chất hơn người.

Lên 3 tuổi nghe đọc biết phát âm, lên 7 tuổi theo học thầy Nguyễn Văn Vận (Tiến sĩ Hoàng Giáp khoa thi Ất sửu 1505, Đô Ngự Sử triều vua Lê Uy Mục).

Sự nghiệp khoa cử

Lên 13 tuổi (theo cách tính của người Á Đông, tức khoảng năm 1516), Nguyễn Thái Bạt thi đỗ Hương Cống, đứng thứ 3 kỳ thi Hương ở trấn Hải Dương năm đó. Sau đó, ông xin phép cha mẹ được đi thăm thú xem xét đời sống dân tình. Đến xã Phan Xá tổng Quang Liệt huyện Phù Dung phủ Khoái Châu trấn Sơn Nam (nay là thôn Phan Xá xã Tống Phan huyện Phù Cừ tỉnh Hưng Yên), thấy nơi đây có địa thế tốt theo phong thủy, ông trụ lại và nhờ các bô lão địa phương giúp mở trường dạy học cho dân Phan Xá. Thời gian này Ông vẫn miệt mài kinh sử.

Năm 17 tuổi (1520) vua Lê Chiêu Tông ban chiếu, ông cùng gia thần trở lại kinh thành dự thi Hội, thi Đình, khoa thi Canh Thìn năm 1520, thi hội lấy trúng cách 13 người, sau đó phát hiện có hai người phạm qui chế, thi Đình còn lại 11 người. Đầu bài Văn sách vua ra hỏi về trọng dụng nhân tài, cho Nguyễn Thái Bạt đỗ Đình nguyên hoàng giáp, làm quan Hiệu lý ở viện Hàn lâm.

Phò Lê không theo Mạc

Năm Nhâm Ngọ (1522) Vua Lê Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung ép, bỏ chạy về Thanh Hóa, ông cùng thầy dạy phò giá vua về Tây kinh (Thanh Hóa). Đến 17-2-1526 Mạc Đăng Dung bắt Vua từ Thanh Hóa ra, giết vua tại phường Đông Hà thuộc Thăng Long vào tháng 12 năm 1526. Ông từ quan trở về Hải Dương rồi lại đến Phan Xá, tiếp tục dạy học cho dân địa phương. Sau khi chiếm ngôi ngày 15-6-1527, Mạc Đăng Dung cho hạ thần tìm ép vời Nguyễn Thái Bạt vào chầu bổ dụng chức quan Đô ngự sử. Biết không thể từ chối được mãi, ngày 15-3-1527 Ông trở lại kinh thành. Nhưng với quan điểm: người trung thần không thờ 2 vua, quyết làm trung thần nhà Lê, ông đã giả vờ thong manh (mắt kém) để từ chối làm quan nhà Mạc. Khi tiếp cận Mạc Đăng Dung, ông đã thóa mạ Mạc Đăng Dung với những lời lẽ: "Mày là đồ bất trung, nghịch tặc", và dõng dạc tuyên bố "Ta thà làm ma nhà Lê, chứ không thèm làm quan nhà Ngụy Mạc", rồi đập đầu thềm điện tử tiết. Ông mất khi đó mới 24 tuổi (năm 1527). Lúc bấy giờ rất nhiều quan lại tử tiết phản đối nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh phù Lê diệt Mạc.

Vinh danh

Sau ngày mất 45 năm vua Lê Anh Tông sắc phong bản Thần Tích Thành Hoàng Nguyễn Thái Bạt, Thôn Phan Xá, xã Tống Phan, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên Chính bản do Nguyễn Bính, quan nhà Hậu Lê, soạn vào tháng Giêng niên hiệu Hồng Phúc năm đầu (1572).

Hiện nay bài vị thờ tại Đình Làng Phan xá, xã Tống Phan, huyên Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên còn ghi rõ với dòng chữ: Lê Triều Bảng nhãn, Hàn lâm thị thư Nguyễn Công Huý Thái Bạt lịch phong Trung liệt Đại vương, Đương cảnh phúc thần. Tuy nhiên, bài vị này là do hậu thế suy tôn lên, còn Nguyễn Thái Bạt không đỗ bảng nhãn mà chỉ đỗ hoàng giáp tức là tiến sĩ xuất thân, bậc tiến sĩ hạng 2 sau bậc tiến sĩ cập đệ (tiến sĩ cập đệ còn gọi là tam khôi gồm 3 vị trí cao nhất: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa).

Sử sách thời Lê trung hưng sau đó có nhiều bài viết ca ngợi tấm gương trung thành của ông với nhà Lê. Năm 1666 sau ngày ông mất 139 năm, nhà Lê trung hưng xét phong thưởng cho bề tôi trung thành tiết nghĩa, ông được sắc phong là trung đẳng thần, vua cho nhân dân Cẩm Giàng dựng miếu thờ.

Sách Lê triều khiếu vinh thi tập chép rằng: "Nguyễn Thái Bạt người xã Bình Lãng, huyện Cẩm Giàng đỗ Tiến sĩ triều vua Lê Quang Thiệu (1520), làm quan ở Hàn lâm viện. Khi họ Mạc đoạt ngôi vua Lê Chiêu Tông, Thái Bạt mượn cớ có tật mắt mù, không chịu khuất phục theo Mạc, nhưng Mạc Đăng Dung vẫn ép ông vào triều kiến; ông xin được ngồi đối diện tiếp kiến. Nhân đó thóa mạ mắng nhiếc vào mặt Đăng Dung, liền bị hãm hại.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Thái Bạt** (chữ Hán: _阮泰拔_, 1504-1527) là một danh sĩ thời Lê sơ. Ông từng đỗ thủ khoa, Tiến sĩ đệ nhị giáp (Hoàng giáp) khoa thi Canh Thìn (1520), niên hiệu Quang Thiệu
**Nguyễn Phong Dy** (阮豐貽), nguyên danh **Nguyễn Thái Bạt**, hỗn danh **Lý Phục Hán**, sinh năm 1889, tại làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Trung Kỳ
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Nguyễn Tấn Dũng** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thủ tướng thứ sáu của nước Cộng hòa xã hội chủ
**Nguyễn Khoa Chiêm** (阮科占, Kỷ Hợi 1659–Bính Thìn 1736) tự _Bảng Trung_ (榜中), tước _Bảng Trung Hầu_, là công thần trải hai triều chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú thời Lê
Trung Sơn Hiến Vũ vương **Thác Bạt Anh** (chữ Hán: 拓跋英, ? – 9 tháng 12 năm 510), còn gọi là **Nguyên Anh** (元英), tên tự là **Hổ Nhi**, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Đinh Bạt Tụy** (1516-1589) là quan triều Lê trung hưng, quê ở thôn Bùi Ngọa, xã Bùi Khổng, tổng Hải Đô, nay là xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. ## Tiểu sử
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Bùi Tuấn** (1808-1872) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Năm sinh và gia thế Theo gia phả họ Bùi ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội do tổ tiên
**Thác Bạt Lực Vi** (, 174-277, tại vị 220-277) là một lãnh tụ Thác Bạt bộ Tiên Ti, là tổ tiên của các hoàng đế Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Nguyễn Thượng Hiền** (1868-1925) tên tự: Đỉnh Nam, Đỉnh Thần, tên hiệu: **Mai Sơn** còn được gọi là **Ông nghè Liên Bạt**, sinh năm 1868 tại làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
**Nguyễn Hữu Tuệ** (1871-1938), tên thường gọi là **Lý Tuệ**, là người tham gia tích cực trong các hoạt động xuất dương của phong trào Đông Du và hội Duy Tân. Những đóng góp của
**Thác Bạt Phất** (, ? - 294) là một lãnh tụ Sách Đầu bộ Tiên Ti. Ông tại vị trong khoảng thời gian 293-294, tương ứng với thời kỳ Tây Tấn tại Trung Nguyên. "Ngụy
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Thái Thanh** (chữ Hán: 蔡清, 1453 – 1508), tên tự là **Giới Phu**, hiệu là **Hư Trai**, người huyện Tấn Giang, phủ Tuyền Châu , là quan viên, học giả nhà Minh. Ông là nhà
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Nguyễn Đình Tuân** (阮廷詢, 1867-1941; thường gọi là ông **Nghè Sổ**) người xã Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình,
**Nguyên Nhân Tông** (chữ Hán: 元仁宗; 1285 - 1320) tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt **(Borijin Ayurbarwada Buyantu Khan), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà
Nằm giữa vùng biển ngọc xanh thẳm của vịnh Thái Lan, Phú Quốc – hòn đảo lớn nhất Việt Nam – không chỉ nổi tiếng với những bãi biển hoang sơ, rừng nguyên sinh bạt
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Trù** (chữ Hán:阮儔, 1668-1738), tự **Trung Lượng**, hiệu **Loại Phủ**, **Loại Am**, người phường Đông Tác (Trung Tự), huyện Thọ Xương thuộc kinh thành Thăng Long, là một đại thần dưới triều Lê Trung
**Nguyễn Công Cơ** (Chữ Hán: 阮公基; 1675 - 5/12/1733), tên huý **Tự Cẩm**, hiệu **Cảo Hiên**, tự **Nghĩa Trai**, là một nhà khoa bảng, nhà ngoại giao và danh thần dưới thời Lê Trung Hưng,
**Uriyangqatai** (chữ Mông Cổ: ᠤᠷᠢᠶᠠᠩᠬᠠᠳᠠᠢ, _Урианхайдай_, 1200-1271), còn được chép trong sử liệu chữ Hán với phiên âm Hán-Việt gồm **Ngột Lương Hợp Thai, Ngột Lương Hợp Đài, Ngột Lương Cáp Thai**, **Ngột Lương Cáp
**Thái Tổ** (chữ Hán: 太祖) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. Những vị vua có miếu hiệu Thái Tổ thường là người khai
nhỏ|Tượng thần [[Khẩn Na La huyền thoại tại chùa Phra Kaew (chùa Phật Ngọc), Băng Cốc]] **Văn hóa Thái Lan** là một khái niệm bao hàm những niềm tin và các đặc trưng văn hóa
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2019** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2019, chủ
**Nguyễn Tấn** (阮縉, 1822-1871), tự là **Tử Vân**, là một võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Ông thành danh là nhờ công đánh dẹp các cuộc nổi dậy
**Nguyễn Bính** (tên thật là **Nguyễn Trọng Bính**; 1918–1966) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Ông được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài
**Đồng Sĩ Nguyên** (1 tháng 3 năm 1923 – 4 tháng 4 năm 2019), còn được viết là **Đồng Sỹ Nguyên**, tên thật **Nguyễn Hữu Vũ**, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
**Nguyễn Cư Trinh** (chữ Hán: _阮居貞_, 1716-1767), tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, húy là Thịnh, tự là Cư Trinh, hiệu là Đạm Am, Đường Qua và Hạo Nhiên. Ông là danh tướng, danh sĩ
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Mông Cổ dưới sự hợp tác của nhà Nguyên** là thời kỳ mà nhà Nguyên do Hốt Tất Liệt Hãn thành lập, trị vì trên thảo nguyên Mông Cổ, cụ thể là Nội Mông và
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Nguyễn Hữu Xuyến** (1917–2007), bí danh **Tám Xuyến**, **Tám Kiến Quốc**, là một vị tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam mang quân hàm Trung tướng, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
**Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế** (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là **Thác Bạt Tự** (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai
**Hạ Bạt Thắng** (chữ Hán: 贺拔胜, ? – 544), tên tự là **Phá Hồ**, người Tiêm Sơn, Thần Vũ, dân tộc Sắc Lặc, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Nguyên Hạ** (407-479) là tướng nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Nguyên Hạ vốn có tên là **Thốc Phát Phá Khương**, tên Tiên Ti là **Hạ Đầu Bạt** hay **Giá