Nguyễn Đình Hiến (阮廷獻, 1870-1948) là danh thần nhà Nguyễn, làm tới chức tổng đốc Bình Phú (Bình Định - Phú Yên). Ông tự Dực Phu (翼夫), hiệu Ấn Nam (印南), thụy là Mạnh Khả, quê làng Lộc Đông, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam).
Tiểu sử
Năm 1895, niên hiệu Thành Thái thứ 7 ông được bổ vào học sinh trường Đốc Quảng Nam, được Đốc học Mã Sơn Trần Đình Phong khen ngợi cùng với Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng tại trường này.
Sau khi vinh qui, ông được triều đình cử giữ chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, được chọn vào học chữ Pháp tại trường Quốc học, đến năm 1905 được thăng chức Toản tu. Đầu năm 1906 được vua Thành Thái phái sang du học tại Pháp về chính trị và phong tục và đã viết cuốn Tây sai kỹ lãm trình vua Thành Thái.
Sau chuyến đi sứ về, ông được bổ nhiệm Đồng tri phủ lãnh chức Tri huyện huyện Bồng Sơn, phủ Bồng Sơn tỉnh Bình Định.
Năm 1907, ông được cai đổi sang làm Tri huyện huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
Năm 1908, thăng Tri phủ Hoài Nhơn.
Cũng trong năm 1908, bạn đồng học của Nguyễn Đình Hiến là Trần Quý Cáp bị bắt giam và bị khép vào tội mưu phản, lãnh án bị chém ngang lưng. Khi gia quyến và học trò đưa quan tài Trần Quý Cáp ngang qua Bồng Sơn (thuộc thị xã Hoài Nhơn), Nguyễn Đình Hiến đang làm Tri phủ Hoài Nhơn đã thiết án bên đò Bồng Sơn làm lễ, lạy khóc thảm thê. Công sứ Bình Định biết tin, cho rằng Nguyễn Tri phủ đã đồng lõa với Trần Quý Cáp. Nhờ có Tổng đốc Bình Định là cụ Bùi Xuân Huyên can thiệp, bày cho ông Nguyễn Đình Hiến giả đang mắc bệnh tâm thần nên chuyện mới được cho qua.
Năm 1912, được cải chức Hồng lô tự Thiếu Khanh, lãnh chức Quản đạo đạo Ninh Thuận.
Năm 1913, ông được thăng chức Phủ Thừa phủ Thừa Thiên, năm sau được thăng Quan Lộc tự Thiếu Khanh làm việc ở Huế.
Năm 1919, ông được vua cử làm Phó Chủ khảo khoa thi Hội thí Kỷ mùi, sau đó thăng Bố Chính sứ tỉnh Hà Tĩnh, rồi về Huế giữ chức Tả thị lang Bộ Lại, năm sau chuyển làm Bố Chính sứ tỉnh Quảng Bình.
Năm 1921, ông chuyển về làm Phủ doãn Phủ Thừa Thiên, năm sau giữ chức Tuần phủ tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1923, thăng Tổng đốc Bình Phú.
Cuối đời
Năm 1927, Nguyễn Đình Hiến về hưu với hàm Hiệp tá Đại học sĩ, sau đó ông trở về Huế và ở tại ấp Bình An, gần dốc Nam Giao một thời gian.
Năm 1935, ông trở về nguyên quán ở làng Lộc Đông dưỡng tuổi già và qua đời vào ngày 31 tháng 5 năm 1948, hưởng thọ 77 tuổi.
Khai mở đường đèo Le
Ông không những là một vị quan thanh liêm chính trực mà còn là một người có tư tưởng đổi mới và ham học hỏi tìm hiểu kỹ thuật phương Tây với mục đích canh tân đất nước. Khi đã về hưu an dưỡng tại quê nhà ông đã đứng ra vận động nhân sĩ và nhân dân góp công, góp của khai mở con đường đèo Le để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và phát triển kinh tế cho vùng đất Nông Sơn lúc bấy giờ.
Trước đây vùng Lộc Đông quê hương ông bốn bề là rừng rậm núi cao, mọi sự giao lưu với bên ngoài đều qua đường thủy xuôi dòng sông Thu Bồn, còn đường bộ thì hầu như không có. Dần về sau nhu cầu đi lại càng nhiều, người dân đã băng rừng, vượt núi, dần thành một lối mòn nhỏ băng qua núi và được gọi là đèo Le. Còn vì sao có tên gọi là đèo Le và tên gọi này ra đời từ khi nào thì có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng đèo Le là cách đọc trại tên của một người Pháp: De Larie đã có công khám phá và khai thông đèo. Có người cho rằng tên gọi đèo Le xuất phát từ việc người dân đè núi đá cây rừng mà leo, leo mệt quá le lưỡi nên đặt là đèo Le.
Theo nội dung tấm bia chính được tìm thấy tại đèo Le (do chính tay Nguyễn Đình Hiến cẩn soạn bằng chữ Hán) thì sự hiểm trở, khó đi lại của đèo Le lúc bấy giờ được miêu tả như sau:
:"Con đường đèo Le Quế Sơn thật là hiểm trở, về phía Đông có hai tổng Trung Châu là: Thuận Mỹ, An Phú, tiếp về phía Tây là tổng Trung Lộc miền cao, thông với đường sông Thu Bồn và giáp miền thượng man, chung quanh đều là núi cao tạo thành một bức tường thành trời định, trước đây người qua lại tổng Trung Lộc đều than thở đường hiểm núi cao, đá chởm, đất bùn..."
Cũng theo nội dung tấm bia này thì vào một ngày mùa Đông năm Bính Tý (1936), Nguyễn Đình Hiến đã diện kiến với Ngô Đình Khôi (Tổng đốc Quảng Nam lúc bấy giờ) khi Ngô Đình Khôi đi kinh lý các tổng miền thượng du. Tại cuộc gặp này, Nguyễn Đình Hiến đã đề xuất với quan Tổng đốc về việc mở con đường băng qua đèo Le kéo dài từ đông sang tây, rộng 3m và dài khoảng 7 km. Sau đó, Nguyễn Đình Hiến đứng ra thành lập ban vận động lạc quyên để khai mở con đường đèo Le gồm Tú tài Lâm Xuân Quế ở xã Phước Bình, Cửu phẩm Nguyễn Đình Dương ở xã Lộc Đông. Các ông đã đi vận động nhân dân trong tổng lạc quyên được số bạc là 4600 đồng lẻ, đồng thời cũng trích số bạc tư ích ở các tổng và thu bạc hội chợ rồi giao cho quan lục lộ cùng với ông tri huyện Nguyễn Trọng Thuần đốc thúc tiến hành.
Việc khai mở đèo le bắt đầu được tiến hành vào mùa hè năm Đinh Sửu (1937) và trải 2 năm trời qua bao khó khăn, gian nan, vất vả con đường vượt đèo Le mới được hình thành. Điều này cũng đã được Nguyễn Đình Hiến ghi rõ trong tấm bia chính:
:"Mùa hạ năm Đinh Sửu (1937) khởi công khai phá rừng rậm, nào là bắn đá, đào lấp hố sâu, bắt cầu xây cống vất vả suốt hai mùa mưa, đến mùa hè năm Kỷ Mão (1939). Suốt hai năm tròn dầm mưa dãi nắng, con đưòng đèo Le mới được hoàn thành. Ngày khánh thành (tại cây số 26) có quan Tổng đốc và quan Công sứ đến dự và chúc cho nhân dân tổng Trung Lộc, từ nay đã có đường, xe thông từ đông sang tây, các thành phần sĩ nông công thương có cơ phát triển thuận lợi."
Sau khi con đường đèo Le được hoàn thành, vào năm Canh Thìn (1940), Nguyễn Đình Hiến đã cẩn soạn bốn tấm bia với mục đích dựng tại đỉnh đèo Le. Nội dung tấm bia chính chủ yếu ghi lại công tích mở đường đèo Le, các tấm còn lại ghi danh sách các vị hảo tâm góp tiền bạc để mở đường. Khi chuẩn bị dựng bia thì Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, nên phải đưa các tấm bia này đi dấu, hiện nay mới chỉ tìm được ba tấm.
Tác phẩm
Ngoài một quan triều đình, Nguyễn Đình Hiến còn là một nhà văn. Thơ văn Nguyễn Đình Hiến để lại không nhiều, nhưng giá trị văn chương của tác phẩm ông là những dấu ấn của văn học Việt Nam.
Bài thơ có tên Bang Sơn động (Vịnh núi Trà Bang) ở Ninh Thuận có thể liệt vào hàng những bài thơ hay.
Nguyên văn:
:合分分合此江山,
:造化長存一巨觀.
:筆撟擎天批曉日,
:沙城到海鎮洄瀾.
:石懸鍾鼓, 高曾去,
:岩濟碥丕, 玉女還.
:好位靈區苗胜跡,
:碑檯屹立萬年看.
Phiên âm:
:''Hợp phân phân hợp thử giang sơn,
:''Tạo hóa trường tồn nhất cự quan.
:''Bút kiểu kình thiên phê hiểu nhựt,
:''Sa thành đáo hải trấn hồi lan.
:''Thạch huyền chung cổ, cao tăng khứ,
:''Nham tế biển phi, ngọc nữ hoàn.
:''Hảo vị linh khu miêu thắng tích,
:''Bi đài ngật lập vạn niên khan.
Tạm dịch:
:''Hợp phân phân hợp, đất nước này,
:''Cảnh lớn đất trời mãi còn đây.
:''Núi cao như bút phê trời sáng,
:''Sa thành tới biển chặn sóng đầy.
:''Đá chồng chuông trống, tăng đi khỏi,
:''Đầu non cửa đóng, ngọc nữ về.
:''Đất linh này ai vẽ thắng tích,
:''Bia dựng ngất cao vạn năm nhìn.
Một số tác phẩm khác của ông gồm có:
Quảng Nam phú
Cố cảnh trùng viên
*Tây Sà kĩ lãm
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Đình Hiến** (阮廷獻, 1870-1948) là danh thần nhà Nguyễn, làm tới chức tổng đốc Bình Phú (Bình Định - Phú Yên). Ông tự **Dực Phu** (翼夫), hiệu **Ấn Nam** (印南), thụy là **Mạnh Khả**,
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Nguyễn Đình Thi** (1924–2003) là một nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà phê bình văn học, chính trị gia Việt Nam thời hiện đại. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa I, II,
**Nguyễn Đình Phúc** (20 tháng 8 năm 1919 – 28 tháng 5 năm 2001) là một nhạc sĩ, họa sĩ và nhà thơ Việt Nam. Nguyễn Đình Phúc là nhạc sĩ thuộc thế hệ đầu
**Lăng Nguyễn Đình Chiểu** là nơi an táng và thờ nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cùng với vợ ông là bà Lê Thị Điền và con gái là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Khu di
**Nguyễn Văn Hiến** (sinh năm 1954) là một tướng lĩnh về hưu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Phó Tư lệnh tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân Việt Nam (2003-2004),
**Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền** (1906–1973) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Roma tại Việt Nam, ông là người Việt thứ 11 được tấn phong giám mục, giám mục người Việt đầu
Giáo sư, Tiến sĩ **Nguyễn Đình Tứ** (1932-1996) là một nhà vật lý hạt nhân, nhà lãnh đạo nền khoa học Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
**Nguyễn Đình Cống** là một giáo sư, tiến sĩ ngành xây dựng , nhà giáo nhân dân tại Đại học Xây dựng. Ông là một trong những kỹ sư đầu tiên ở Việt Nam chuyên
**Nguyễn Thúy Hiền** (sinh ngày 11 tháng 3 năm 1979) là một cựu nữ vận động viên wushu chuyên nghiệp người Việt Nam. Cô được đánh giá là một trong những vận động viên wushu
**Nguyễn Thượng Hiền** (1868-1925) tên tự: Đỉnh Nam, Đỉnh Thần, tên hiệu: **Mai Sơn** còn được gọi là **Ông nghè Liên Bạt**, sinh năm 1868 tại làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông
**Nguyễn Văn Hiên** (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1953), quê ở Bình Định, là một nhạc sĩ Việt Nam, từng hoạt động trong phong trào thanh niên từ sau năm 1975 và tốt nghiệp
**Nguyễn Đình Trụ** (1626-1703) ## Thân thế Nguyễn Đình Trụ hiệu là **Chỉ Đường**, người làng Nguyệt Áng, (nay thuộc xã Đại Áng, Thanh Trì, Hà Nội), thuộc dòng họ Nguyễn Đình. Theo một nguồn
**Nguyễn Đình Cung** là một tiến sĩ kinh tế và công chức người Việt Nam. Ông hiện là Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, thành viên Tổ tư vấn kinh
**Nguyễn Đình Bắc** (sinh ngày 19 tháng 8 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh cho câu lạc bộ
**Nguyễn Đình Quang** (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1963), còn gọi là **Nguyễn Xuân Quang**, là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
**Nguyễn Đình Triệu** (sinh ngày 4 tháng 11 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ V.League
**Nguyễn Đình Thuận** là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Cục trưởng Cục An ninh kinh tế, Bộ Công
**Nguyễn Đình Trung** (sinh năm 1964) là kiểm sát viên người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ. ## Tiểu sử Nguyễn Đình Trung
**Nguyễn Đình Hùng** là một tướng lĩnh Quân chủng Hải quân Việt Nam, hàm Chuẩn đô đốc. Ông hiện là Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam
**Nguyễn Đình Mạnh** (sinh ngày 25 tháng 4 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Quảng Nam tại giải
**Nguyễn Đình Tú** là nhà văn quân đội, hiện đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông đã từng kinh qua các vị trí như Biên tập viên văn xuôi, Trưởng ban
**Nguyễn Đình Tuân** (阮廷詢, 1867-1941; thường gọi là ông **Nghè Sổ**) người xã Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình,
**Nguyễn Thần Hiến** (1857-1914), tự: **Phác Đình**, hiệu: **Chương Chu**; là người đã sáng lập ra "Quỹ Khuyến Du học hội" nhằm vận động và hỗ trợ cho học sinh sang Nhật Bản học, là
**Nguyễn Đình Đầu** (12 tháng 3 năm 1920 - 20 tháng 9 năm 2024) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam. Ông được biết nhiều với
**Nguyễn Đình Hoàn** (1661-1744), hiệu **Chu Phù** là thủ khoa nho học Việt Nam, một nhà thơ, và là danh thần của nhà Lê trung hưng. ## Tiểu sử thumb|Mộ và Nhà bia Đình nguyên
**Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Nguyễn Đình Đức** (sinh năm 1963) là một nhà khoa học người Việt Nam, là giáo sư của Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà
**Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu**, tiền thân là **Collège de Mytho** là một trường trung học phổ thông tại Mỹ Tho, Tiền Giang. Thành lập năm 1879, đây là ngôi trường trung
**Nguyễn Đình Lộc** (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1935, mất ngày 24 tháng 1 năm 2021), Quê quán: Xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Tiến sĩ Luật học, Phó Chủ tịch
**Nguyễn Đình Sỹ**, tự Lam Tài, quê gốc ở thôn Đông Biểu, xã Xuân Tình, huyện Thiên Lộc, phủ Thạch Hà, trấn Nghệ An, nay là xóm Xuân Đông, xã Hộ Độ, thành phố Hà
**Nguyễn Đình Đăng** (sinh 1958) là một nhà vật lý, nhà nghiên cứu về lý thuyết vật lý hạt nhân tại Viện Vật lý hóa học Nhật Bản (tức Viện RIKEN). Ông còn là một
**Nguyễn Đình Nghị** (阮廷誼, 1883 - 1954), thường gọi là **Trùm Nghị**, là soạn giả, nhà cách tân chèo. Ông là người khai sinh ra trào lưu chèo cải lương, một trong những người tiên
**Nguyễn Đình Hoàn** (? -1765), tên chữ là **Linh Thuyên**; là võ quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Đình Hoàn** là người làng Hương Duệ, huyện Kỳ
**Nguyễn Đình Đống** (1716 - 1783): còn có tên là **Nguyễn Đình Dĩnh**, húy là **Nguyễn Đình Tôn**, thụy **Mẫn Nhuệ**, một danh tướng cuối thời Lê Trung Hưng được phong **Dĩnh Quận Công **
**Trần Đình Phong** (chữ Hán: 陳廷楓; 1843 - 1909), thuở nhỏ gọi là Nho Bằng là một danh sĩ dưới thời Nguyễn. Ông quê xóm Lũy, xã Thanh Khê nay là xã Mã Thành, huyện
**Nguyễn Văn Hiền** (sinh ngày 22 tháng 2 năm 1967) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thượng tướng. Ông hiện là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
**Nguyễn Đình Thư** (1917-?) là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1917 tại làng Phước Yên, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là
Giáo sư **Nguyễn Đình Chú** (sinh năm 1929) là giảng viên cao cấp của khoa Ngữ văn (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng danh hiệu
**Nguyễn Minh Vân** (1923 – 2014) có tên đầy đủ là **Nguyễn Đình Quảng** bút danh **Nguyễn Dân Trung** là một nhân viên tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam với quân hàm
**Nguyễn Đình Toàn** (6 tháng 9 năm 1936 – 28 tháng 11 năm 2023) là nhà văn và nhạc sĩ người Việt định cư ở Mỹ. Ông còn có bút hiệu là **Tô Hải Vân**
**Nguyễn Xước Hiện** (1952) là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Ông là nhân vật chính trong Phim tài liệu có tên "Nửa thế kỷ thầm lặng", nói về nỗi oan
Truyện Nôm Lục Vân Tiên ra đời khoảng năm 1854 lúc Nguyễn Đình Chiểu 32 tuổi , bản Nôm khắc in sớm nhất hiện ghi nhận được là do Quảng Thạnh Nam phát thụ, Duy
**Nguyễn Đình Sách** (1638-1697), vốn tên là **Nguyễn Tiến Sách**, tự **Dực Hiên**, là danh thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Đình Sách là người ở xã
**Nguyễn Đình Việt** (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1977) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy Sơn La, nhiệm kỳ
**Nguyễn Đình Cổn** (1652-1685) là danh thần thời vua Lê chúa Trịnh, làm đến Thiêm đô Ngự sử, Hình bộ Tả thị lang tước Đông Triều nam. ## Xuất thân Nguyễn Đình Cổn, hay còn
**Nguyễn Đình Bảo** (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá Việt Nam hiện đang chơi bóng ở vị trí tiền đạo cho Câu lạc bộ bóng đá Quảng Nam.
**Nguyễn Ngọc Hiến** (1942 - ) có nghệ danh **Tư Diệu**, là nam đạo diễn điện ảnh và phim tài liệu người Việt Nam, ông từng giữ chức Giám đốc Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu.
**Phêrô Nguyễn Đình Diễn** (sinh năm 1957) là một Tín hữu Công giáo người Việt. Ông là một nhà giáo, dịch giả và nhạc sĩ Công giáo với nhiều tác phẩm có giá trị. Ông
**Nguyễn Đình Khánh** (còn có tên hiệu là **Khánh Ký**, 1874–1946) là một nhiếp ảnh gia người Việt Nam. Ông được xem là người có công phát triển nghệ thuật nhiếp ảnh tại Việt Nam,
**Nguyễn Đình Lập** là một huấn luyện viên bóng chuyền tại giải VĐQG Việt Nam và hiện đang là huấn luyện viên phó Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Việt Nam. Ông trở thành