thumb|Một cụ ông người Katang mặc áo chui đầu, cổ xẻ và đóng khố
Người Katang hay người Kataang (; ) là một dân tộc chủ yếu sống ở Nam Lào, và một số nơi khác ở Đông Nam Á.
Người Katang nói tiếng Katang, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Cơ Tu (Katuic), ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á .
Ethnologue và Glottolog đều xếp tiếng Katang vào mục riêng , tuy nhiên nhiều văn liệu coi tiếng Katang là một phương ngữ của tiếng Bru hoặc tiếng Tà Ôi.
Năm 2015, có 144.255 người Katang sống ở Lào, làm cho họ trở thành một trong những phân nhóm lớn nhất của Lào Thơng và là một trong những nhóm sắc tộc vùng cao thực sự lớn nhất trong nước. Hầu hết người Katang sống ở Savannakhet, Saravan và Champasack.
Theo Ethnologue thì người Katang chỉ sống ở Lào. Người Katang Bắc sống tại các tỉnh Saravane (muang Toumlane), và Savannakhet (muang Nong và Phine), có dân số năm 2016 là 65.000 người . Người Katang Nam sống tại các tỉnh Saravane (muang Toumlan), có dân số năm 2016 là 40.000 . Như vậy tổng dân số năm 2016 là 105.000 người.
Văn hóa
Người Katang là một trong số ít những người Lào Thơng không sống trong nhà sàn hay nhà trên cây cối, mà là những ngôi nhà gỗ dài. Khi một người đàn ông Katang kết hôn với một người phụ nữ, anh ta sẽ thêm một căn phòng vào nhà cho gia đình mới của mình. Một trong những nhà gỗ dài 100 m mà khách du lịch có thể nhìn thấy nó ngay phía bắc của thành phố Saravan.
Một hủ tục truyền thống Katang cũ cho cả nam giới và phụ nữ là xuyên lỗ tai và đặt ống tre vào lỗ. Hủ tục này đã chấm dứt.
Hầu hết người Katang theo tín ngưỡng dân tộc cổ và nhiều người làm điều này cũng theo Phật giáo. Có ít hơn 400 Kitô hữu Katang vì nhiều người sợ đạo Thiên Chúa sẽ mang lại một lời nguyền cho người dân của họ. Người theo Hồi giáo không nhiều, chủ yếu là phụ nữ Katang kết hôn với người nước ngoài Hồi giáo ở Lào.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Một cụ ông người Katang mặc áo chui đầu, cổ xẻ và đóng khố **Người Katang** hay **người Kataang** (; ) là một dân tộc chủ yếu sống ở Nam Lào, và một số nơi
phải|nhỏ|Cuốn tập đọc song ngữ Việt-[[Kơho do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1959 thời Đệ Nhất Cộng hòa với sự hợp tác của Phái bộ Kinh tế Hoa Kỳ]] **Người Thượng** là
Người Bru - Vân Kiều gùi hàng trên [[đường 9]] **Người Bru - Vân Kiều** (còn gọi là **người Bru**, **người Vân Kiều**, **người Ma Coong**, **người Trì** hay **người Khùa**) là dân tộc cư
**Người Cơ Tu** (còn gọi là **người Ka Tu**, **Gao**, **Hạ**, **Phương**, **Ca-tang**) là một dân tộc sống ở Miền Trung (Việt Nam) và Hạ Lào. Dân số người Cơ Tu có khoảng trên 103
**Người Giẻ Triêng** (_Jeh-Taring_) là một dân tộc cư trú chủ yếu tại miền trung Việt Nam và nam Lào. Theo Joshua Project tổng dân số năm 2019 là 75 ngàn người. Tại Việt Nam
**Tiếng Tà Ôi** (trong văn liệu quốc tế viết là Ta'Oi hay Ta'Oih) là ngôn ngữ của người Tà Ôi, một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là Nam Lào (tỉnh Salavan, Sekong)
**Tiếng Bru** (còn gọi là Bruu, B'ru, Brou, Baru) là ngôn ngữ của người Bru - Vân Kiều, người Katang ở vùng Đông Nam Á. Tiếng Bru thuộc ngữ chi Cơ Tu (Katuic), ngữ tộc
**Nhà nước Katanga** (; ), còn được gọi là **Cộng hòa Katanga**, là một quốc gia ly khai tuyên bố độc lập khỏi Congo-Léopoldville vào ngày 11 tháng 7 năm 1960 dưới sự lãnh đạo
**Saravane** (tiếng Lào: **ສາລະວັນ**, phiên âm: Xa-la-van) là một tỉnh ở phía nam Lào. Trước đây tỉnh có tên gọi là Saravan sau này bị người Thái đổi thành Salavan vào năm 1828. Nó từng
**Tiếng Phu Thái** (, ) là một ngôn ngữ Tai Tây Nam nói tại Lào và Thái Lan. Mặc dù nó có vẻ khác với tiếng Isan và tiếng Lào, nhưng nó được sử dụng
**Champasak ** hay **Champassak**, **Champasack** (, IPA: , phiên âm tiếng Việt: **Chăm-pa-sắc**) là một tỉnh ở phía tây nam Lào, kề biên giới với Thái Lan và Campuchia. Đây là một trong ba lãnh
**Attapeu** () là một tỉnh nằm ở phía đông nam của Lào; phía bắc giáp với tỉnh Sekong; phía tây giáp với tỉnh Champassak; phía đông giáp với dãy Trường Sơn, tách Attapeu khỏi Việt