✨Người Do Thái ở Hồng Kông
Người Do Thái là một trong những người định cư đầu tiên tới Hồng Kông sau khi nơi đây trở thành thuộc địa của Anh vào năm 1841. Những người Do Thái đầu tiên tới Hồng Kông đến từ nhiều vùng khác nhau của Đế quốc Anh với tư cách là thương nhân và quan chức thuộc địa. Đặc biệt nổi bật trong làn sóng đầu tiên là những người Do Thái Bagdad, cụ thể các thành viên gia tộc Sassoon và Kadoorie. Việc xây dựng Hội đường Do Thái giáo Ohel Leah vào năm 1901 đánh dấu sự khởi đầu của một đời sống tôn giáo hoàn chỉnh cho những người Do Thái địa phương.
Cộng đồng người Do Thái ở Hồng Kông có thể tự do thực hành hầu hết các truyền thống văn hóa và tôn giáo, bao gồm tổ chức Ngày Sabát và kỷ niệm các ngày lễ Do Thái chính. Thành phố hiện có bốn hội đường Do Thái đang hoạt động, ba trường học và một nghĩa trang Do Thái.
Người Do Thái chưa bao giờ hình thành một cộng đồng lớn ở Hồng Kông. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ khoảng vài trăm người ở nơi đây. Tuy nhiên, nhiều người Do Thái có ảnh hưởng đã để lại dấu ấn đậm nét đối với thành phố. Trong số đó, Matthew Nathan, thống đốc Do Thái đầu tiên và duy nhất của Hồng Kông, là người đã thành lập tuyến đường sắt Quảng Châu-Cửu Long; các thành viên gia tộc Kadoorie đã thành lập Công ty CLP (China Light and Power, tạm dịch: Công ty Năng lượng và Ánh sáng Trung Quốc) và Tổng công ty Hongkong and Shanghai Hotels; và các thành viên gia tộc Sassoon đã tài trợ cho nghĩa trang Do Thái và hội đường Ohel Leah.
Phần lớn cộng đồng Do Thái ở Hồng Kông là những người tạm trú, là người nước ngoài đến từ các quốc gia có cộng đồng Do Thái lớn hơn nhiều như Israel, Hoa Kỳ, Pháp. , có khoảng 5.000 cư dân Do Thái ở Hồng Kông, thuộc các giáo phái Do Thái giáo khác nhau.
Lịch sử
Thế kỉ 19
thumb|Mộ của Horace Kadoorie tại một nghĩa trang Do Thái ở khu dân cư Bào Mã Địa, Hồng Kông
Người Do Thái là một trong những người định cư đầu tiên tới Hồng Kông sau khi nơi đây trở thành thuộc địa của Anh vào năm 1841. Người định cư Do Thái đầu tiên là thương gia người Sephardi Elias David Sassoon (1820–1880), con trai của doanh nhân Mumbai quyền lực David Sassoon (1792–1864), người đã mở một văn phòng ở Quảng Châu vào năm 1844. Điều này cho thấy sự quan tâm của David Sassoon & Co. đối với thị trường Trung Quốc. Một cộng đồng Do Thái thường trú được hình thành ở Hồng Kông vào những năm 1850. Đời sống xã hội của cộng đồng xoay quanh các gia tộc Sephardi giàu có như Sassoon và Kadoorie, một gia đình Do Thái Bagdad khác có nhiều lợi ích bên ngoài Hồng Kông. Những gia tộc này chủ yếu sử dụng nhân viên Do Thái trong các công ty thương mại của mình, khuyến khích một làn sóng người Do Thái mới từ Bagdad và Mumbai đến Hồng Kông.
Năm 1855, một nghĩa trang Do Thái được thành lập ở khu vực Bào Mã Địa. Hội đường Do Thái đầu tiên được mở vào năm 1870 tại một nhà tập thể trên Đường Hollywood, nhưng nhanh chóng bị thay thế bởi một hội dường mới vào năm 1881. Vào những năm 1880, một làn sóng người Do Thái Ashkenazi từ Đông Âu (chủ yếu từ Đế quốc Nga) và Balkan đến định cư ở Hồng Kông. Những người Sephardi giàu có tránh xa, tạo khoảng cách, không muốn dính líu tới những người Ashkenazi chủ yếu là nghèo khổ. Hai cộng đồng thậm chí còn không cầu nguyện cùng nhau và chôn cất người chết ở các khu vực khác nhau. Người Ashkenazi buộc phải định cư trong các nhà trọ và khu dân cư nghèo, làm việc trong các quán bar và câu lạc bộ không minh bạch, một số người phụ nữ còn làm nghề mại dâm.
Vào nửa cuối thế kỷ 19, Elias David Sassoon là nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong cộng đồng Do Thái ở Hồng Kông. Ông đứng đầu chi nhánh David Sassoon & Co. ở Trung Quốc và Nhật Bản, kiểm soát các chuyến hàng thuốc phiện Ấn Độ, cũng như việc vận chuyển hàng hóa của công ty giữa Mumbai, Kolkata, Hồng Kông, Quảng Châu, Thượng Hải, Nagasaki và Yokohama. Sassoon đã ủng hộ tiền thành lập một hội đường Do Thái và Sailors' House, một trong những tổ chức từ thiện đầu tiên, ở Hồng Kông. Năm 1865, gia tộc Sassoon hỗ trợ thành lập Hongkong and Shanghai Banking Corporation (HSBC), và vào đầu những năm 1870, David Sassoon & Co. đứng đầu trong việc cung cấp thuốc phiện từ Hồng Kông sang Trung Quốc, vượt qua đối thủ cạnh tranh chính là Jardine Matheson & Co. Vào tháng 10 năm 1879, kho than của công ty ở cảng Hồng Kông bị cháy và vào tháng 3 năm 1880, Elias Sassoon qua đời ở Colombo.
Một thành viên nổi bật khác của gia tộc Sassoon là Frederick David Sassoon (1853–1917). Ban đầu, ông chỉ hỗ trợ anh trai của mình là Elias Sassoon. Sau khi Elias Sassoon qua đời, ông đứng đầu công việc kinh doanh của gia đình ở Hồng Kông và giám sát tất cả hoạt động ở vùng Viễn Đông. Ngoài ra, trong các năm 1878–1879 và 1885–1886, ông là chủ tịch hội đồng quản trị của HSBC. Từ năm 1884 đến năm 1887, ông là thành viên của Hội đồng Lập pháp Hồng Kông với tư cách một thẩm phán cấp thấp (justice of the peace, JP). Sau khi chuyển đến Anh, ông là chủ tịch của David Sassoon & Co. ở London và giám đốc của Ngân hàng Hoàng gia Ba Tư. Vào cuối thế kỷ 19, con trai của Charles Bosman, Robert Hotung Bosman, là một trong những người giàu nhất Hồng Kông. Với tầm ảnh hưởng và sự giàu có của mình, ông có thể cạnh tranh với các chủ hãng buôn lớn của Anh ở Hồng Kông.
Cùng với gia tộc Sassoon và Bosman, Emanuel Raphael Belilios (1837–1905) cũng là một người Do Thái nổi bật ở Hồng Kông. Thành công nhờ buôn bán thuốc phiện, Belilios đứng đầu Hongkong Hotel Company, đồng thời là chủ tịch hội đồng quản trị của HSBC và là thành viên của Hội đồng Lập pháp Hồng Kông.
Nửa đầu thế kỷ 20
thumb|left|Đường Nathan, đặt theo tên của Thống đốc Hồng Kông Matthew Nathan là người Do Thái.
Vào đầu thế kỷ 20, theo số liệu chính thức, 165 người Do Thái sống ở Hồng Kông, chủ yếu là người Sephardi từ Bagdad. Năm 1901, Jacob Sassoon (1843–1916) ủng hộ tiền xây Hội đường Do Thái giáo Ohel Leah, và vào năm 1905, anh em nhà Kadoorie đã xây dựng Jewish Recreation Club (Câu lạc bộ Do Thái) bên cạnh, một trung tâm cho đời sống xã hội của cộng đồng. Giai đoạn 1904-1907 khi Matthew Nathan, một người Do Thái, làm Thống đốc Hồng Kông được coi là thời kỳ hoàng kim của cộng đồng. Trong thời kỳ này, nghĩa trang người Do Thái được mở rộng và tuyến đường sắt giữa Cửu Long và Quảng Châu bắt đầu được xây dựng. Tuyến phố chính của Cửu Long được đặt tên là Đường Nathan để vinh danh ông. Năm 1911, số người Do Thái ở Hong Kong là 230. Từ đầu những năm 1920 đến giữa những năm 1930, có một làn sóng các doanh nhân Do Thái đến thành phố Thượng Hải, một nơi đang phát triển nhanh chóng. Vì vậy, số lượng người Do Thái ở Hồng Kông giảm xuống dưới 100 người. Người Sephardi vẫn như trước đây chiếm thế thượng phong. Tuy nhiên, cán cân bắt đầu thay đổi về phía người Ashkenazi khi nhiều người tị nạn từ Đông Âu di cư đến Hồng Kông.
Trong nửa đầu thế kỷ 20, hai anh em Jacob Elias Sassoon và Edward Elias Sassoon (1853–1924), cùng với người họ hàng Edward Shellim (1869–1928), là những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng Do Thái ở Hồng Kông. Shellim, cháu của Elias David Sassoon, bắt đầu làm quản lý tại chi nhánh Hồng Kông của David Sassoon & Co., và sau đó trở thành chủ tịch của HSBC từ năm 1912 đến năm 1913. Ông cũng là giám đốc của Hong Kong Tramways, Hongkong Land và Hong Kong and Kowloon Wharf and Godown Company. Ông còn là thành viên ủy ban cố vấn của China Sugar Companies Refining, Hong Kong Fire Insurance và Canton Insurance Society. Ngoài các hoạt động thương mại, Shellim còn là một thẩm phán cấp thấp, một thành viên của Hội đồng Lập pháp Hồng Kông từ năm 1913 đến năm 1918, và là thành viên của Ủy ban Phòng Thương mại Tổng hợp Hồng Kông, House of Sailors, người đứng đầu ủy ban tài chính của Bệnh viện Alice Ho Miu Ling Nethersole, hội đồng Hội đường Do Thái Ohel Leah và Hội đồng Đại học Hồng Kông. Shellim mất vào ngày 8 tháng 12 năm 1928.
Gia tộc Kadoorie cạnh tranh thành công với gia tộc Sassoon. Ở đỉnh cao quyền lực, hai anh em Ellis (1865–1922) và Elly Kadoorie (1867–1944) giữ cổ phần trong Công ty Năng lượng và Ánh sáng Trung Quốc, HSBC, Star Ferry, các nhà máy dệt và đồn điền cao su, sở hữu nhiều bất động sản và Hongkong Hotel Company (nay được gọi là Hongkong and Shanghai Hotels). Năm 1928, Elly Kadoorie mở khách sạn danh giá nhất ở Hồng Kông gần ga Cửu Long— khách sạn The Peninsula Hong Kong cao sáu tầng.
Từ năm 1937, những người tị nạn Do Thái (chủ yếu là người Do Thái giàu có với hộ chiếu Anh hoặc Mỹ) từ Thượng Hải, Thiên Tân và Cáp Nhĩ Tân, chạy trốn khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản và đổ về Hồng Kông, cùng với một số người Do Thái từ châu Âu chạy trốn khỏi Chủ nghĩa Quốc xã. Thành phần tộc người của những người này khá đa dạng; có người Do Thái Bagdad, Do Thái Nga, Do Thái Đức, Do Thái Áo, Do Thái Ba Lan và Do Thái Séc. Hong Kong Society of Jewish Refugees được thành lập để giúp đỡ những người này.
Một làn sóng tị nạn Do Thái khác từ châu Âu qua các cảng Mumbai, Singapore và Hồng Kông đến Thượng Hải, nơi mà sau khi Nhật Bản chiếm đóng, người châu Âu vẫn không cần thị thực—trái ngược với chính quyền thuộc địa Anh không cho phép người tị nạn Do Thái xuống cảng.
Trước khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, vẫn có một số liên hệ giữa khu người Do Thái ở Thượng Hải và Hồng Kông. Thế nhưng, sau vụ tấn công, nhiều người Do Thái Bagdad giàu có ở Thượng Hải — nhiều trong số đó có quốc tịch Anh — đã bị bắt giữ. Vào đêm trước khi Nhật Bản tấn công Hồng Kông vào tháng 12 năm 1941, một số người Do Thái đã tìm cách rời khỏi nơi đây. Trong thời kỳ Nhật chiếm đóng, Hội đường Do Thái Ohel Leah được sử dụng làm kho chứa, Câu lạc bộ Do Thái bị cướp phá, và nhiều thành viên cộng đồng Do Thái bị giam giữ trong Trại Stanley, (nơi, ví dụ, gia đình của Morris Abraham Cohen và Elly Kadoorie bị bắt giam). Sau chiến tranh, một số người Do Thái địa phương đã trở về Hồng Kông; vào năm 1949, Câu lạc bộ Do Thái bị phá hủy trước đó đã được khôi phục lại.
Lawrence Kadoorie là thành viên của Hội đồng Lập pháp và Hành pháp Hồng Kông trong những năm 1950. Năm 1962, Lawrence và Horace Kadoorie nhận được Giải thưởng Ramon Magsaysay. Lawrence Kadoorie nhận được Huân chương Đế quốc Anh năm 1970, được phong Hiệp sĩ năm 1974, được phong Nam tước cho hoạt động từ thiện năm 1981, và là người đầu tiên sinh ra ở Hồng Kông trở thành thành viên của Thượng Nghị viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
Năm 1951, Lawrence và Horace Kadoorie thành lập một hiệp hội để giúp đỡ nông dân Trung Quốc địa phương ở Tân Giới. Vào năm 1956, hai người thành lập một vườn bách thảo và trang trại. Nơi đây sau này trở thành tổ chức nghiên cứu hàng đầu của Hồng Kông trong lĩnh vực sinh thái và nông nghiệp.
Năm cuộn kinh Torah, thuộc về cộng đồng người Do Thái cổ đại ở Khai Phong được tìm thấy ở "Chợ trộm" ("Thieves' Market"), phố Cat (khu phố Lascar, Thượng Hoàn, Hồng Kông) vào năm 1974, ngày nay được lưu giữ trong Hội đường Do Thái Ohel Leah. Năm 1989, 39% thành viên của Hội đường Ohel Leah và Câu lạc bộ Do Thái là người Mỹ, 27% là người Anh (bao gồm cả cư dân Hồng Kông), và 17% là người Israel. Năm 1991, Trường bán trú Do Thái Carmel (Carmel Jewish Day School) được thành lập, nằm ở cánh đông của một bệnh viện quân đội Anh ở Bán Sơn. Trong nửa đầu những năm 1990, có 1,5 nghìn người Do Thái sống ở Hồng Kông, trong đó khoảng 1.000 người tham gia vào đời sống cộng đồng. Theo Bảo tàng ANU - Bảo tàng Người Do Thái, trước khi Hồng Kông được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1997), có khoảng 2.500 người Do Thái sống tại đây, 2/3 trong số đó là người Mỹ và người Israel; Thành phần của cộng đồng Do Thái cũng đã chuyển từ người Bagdad và Tây Âu sang người Mỹ, Anh và Israel. Theo một cuộc khảo sát năm 1989, chỉ có 3% người Do Thái Hồng Kông sử dụng tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ chính hoặc tiếng mẹ đẻ (chủ yếu là phụ nữ Trung Quốc cải sang đạo Do Thái để kết hôn), trong khi chỉ có 7% học tiếng Quảng Đông như ngôn ngữ thứ hai. 9% số người trả lời khảo sát nói tiếng Quan Thoại như một ngôn ngữ thứ hai.
thumb|Khách sạn The Peninsula Hong Kong là tài sản nổi tiếng nhất của gia tộc Kadoorie.
Năm 1995, một trung tâm cộng đồng Do Thái lớn được xây bên cạnh Hội đường Do Thái Ohel Leah, thay thế cho Câu lạc bộ Do Thái cũ. Giáo đoàn Do Thái thống nhất Hồng Kông được chuyển đến trung tâm này, và kể từ đó các nghi lễ tôn giáo bắt đầu được tổ chức trong khán phòng nơi đây, và các giáo sĩ Do Thái của cộng đồng sống trong một khu dân cư gần đó.
Thế kỷ 21
Khoảng 5.000 người Do Thái sống ở Hồng Kông vào năm 2010, thuộc bảy giáo đoàn: Giáo đoàn Do Thái thống nhất cải cách (reformist United Jewish Congregation); chi nhánh Hasidic Chabad ở Hồng Kông, Cửu Long và Đại Tự Sơn; và các giáo đoàn Chính thống Sephardi Kehilat Zion (Cửu Long) và Shuva Israel (Hồng Kông). Tính đến năm 2019, khoảng 5.000 người Do Thái sống ở Hồng Kông.
Nơi tập trung quan trọng nhất của người Do Thái Hồng Kông nằm trên đường Robinson ở Bán Sơn. Trung tâm Cộng đồng Do Thái (Jewish Community Centre) được xây dựng ở đây vào năm 1995, bao gồm một thư viện, một kho lưu trữ Do Thái-Trung Quốc, một trung tâm học tập, một khán phòng đa năng, một hồ bơi trong nhà, một phòng tập thể dục, một nhà hàng thịt và sữa kosher, một quán cà phê và một cửa hàng tạp hóa kosher. Tổng Lãnh sự quán Israel nằm tại tòa 2 khu phức hợp văn phòng Trung tâm Kim Chung (Admiralty Centre), Đường Harcourt, Kim Chung, Hồng Kông.
Một số thành viên quan trọng hiện nay của cộng đồng Do Thái ở Hồng Kông là:
- Michael Kadoorie (con trai của Lawrence Kadoorie): chủ tịch và đồng sở hữu của Tập đoàn CLP, Hongkong and Shanghai Hotels và hãng hàng không Metrojet, đồng thời là thành viên ban giám đốc của CK Hutchison Holdings.
- James Meyer Sassoon: giám đốc điều hành của Tập đoàn Jardine Matheson, Giám đốc Hongkong Land, Dairy Farm International Holdings, Mandarin Oriental Hotel Group và Jardine Lloyd Thompson, Chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Trung Quốc-Anh.
- Allan Zeman: chủ nhà hàng, chủ khách sạn và nhà phát triển bất động sản, thành viên ban giám đốc của tập đoàn Wynn Resorts, còn được gọi là "cha đẻ" của Lan Quế Phường.
Đời sống tôn giáo
thumb|Hội đường Ohel Leah Synagogue
Người Do Thái ở Hồng Kông có thể tự do thực hành các ngày lễ tôn giáo, bao gồm tổ chức các bữa ăn Sabát, kỷ niệm các ngày lễ chính của người Do Thái (Yom Kippur, Rosh Hashanah, Hanukkah, Shavuot, Pesach và những người khác), và phát triển các chương trình giáo dục tôn giáo. Hồng Kông có bốn hội đường Do Thái đang hoạt động (ba trong số đó có giáo sĩ Do Thái toàn thời gian), một trường học Do Thái (Trường Carmel dành cho trẻ nhỏ), hai trường học Chủ nhật (Trường Ezekiel Abraham cho thanh thiếu niên và trường Shorashim cho trẻ em), và một nghĩa trang Do Thái trong khu vực Bào Mã Địa.
Trung tâm Cộng đồng Do Thái là nơi đặt trụ sở của Giáo đoàn Do Thái thống nhất Hồng Kông, phục vụ cho khoảng 500 người theo Do Thái giáo không chính thống (cải cách, tự do và bảo thủ). Kể từ khi thành lập vào năm 1988, giáo đoàn đã liên kết chặt chẽ với Liên minh Thế giới vì Do Thái giáo Tiến bộ (World Union for Progressive Judaism) có trụ sở tại Jerusalem và Liên minh Do Thái giáo Tiến bộ (Union for Progressive Judaism) ở Úc.
Tòa nhà Hoover Court trên đường McDonnell ở khu Bán Sơn là nơi đặt văn phòng của Chabad of Hong Kong (Chabad ở Hồng Kông). Trên đường Chatham ở Tiêm Sa Chủy là văn phòng của Chabad of Kowloon (Chabad ở Cửu Long), mở vào năm 2005 trong tòa nhà Oriental Center. Chabad là một cộng đồng Do Thái năng động nhưng bị cô lập ở Hồng Kông. Những người này đến Hồng Kông vào năm 1985, và ngày nay, thành phố này đã trở thành trung tâm của Chabad ở Châu Á. Trung tâm Cộng đồng Do Thái, nằm trên Đường Robinson, Bán Sơn, điều hành Trung tâm Giáo dục Sớm Holly Rofé, nơi đây có một hồ bơi trong nhà, phòng tập gym và các sân chơi. trên địa điểm của một bệnh viện quân đội Anh trước đây, mở cửa vào năm 1907. Năm 1967, bệnh viện được chuyển đến Cửu Long, và quân đội đã chuyển giao các tòa nhà trống cho chính quyền thuộc địa. Năm 2010, một chi nhánh địa phương của Liên đoàn Hướng đạo sinh Nam Nữ Israel (Israel Boy and Girl Scouts Federation) được mở tại Hồng Kông.
Năm 1999, Howard Elias, người Canada, thành lập Liên hoan phim Do Thái Hồng Kông hàng năm, bao gồm các bộ phim và phim tài liệu từ khắp nơi trên thế giới, dành riêng cho các chủ đề Do Thái khác nhau. Hiệp hội Phụ nữ Do Thái Hồng Kông, được thành lập vào những năm 1940 để giúp đỡ những người tị nạn Do Thái từ Thượng Hải, tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong cộng đồng. Hàng năm, tổ chức này thực hiện nhiều chương trình văn hóa, xã hội và giáo dục, đồng thời quyên góp cho các tổ chức từ thiện ở Israel và cho cộng đồng Do Thái địa phương.
Ẩm thực
Một số nhà hàng kosher ở Hồng Kông bao gồm Nhà hàng Thịt Sabra và Nhà hàng Waterside Dairy nằm trong Trung tâm Cộng đồng Do Thái, Nhà hàng Mul Hayam do Kehilat Zion điều hành ở Cửu Long và Shalom Grill do Shuva Yisrael điều hành ở Trung Hoàn, Hồng Kông. Hầu hết tất cả các giáo đoàn Do Thái ở Hồng Kông đều cung cấp dịch vụ giao đồ ăn kosher đến tận nhà và khách sạn, đồng thời tổ chức các bữa tiệc chiêu đãi bên ngoài.
Chủ nghĩa bài Do Thái
Nhiều người cho rằng chủ nghĩa bài Do Thái không tồn tại ở Hồng Kông. Một số người cho rằng cộng đồng người Do Thái ở Hồng Kông chưa bao giờ phải hứng chịu chủ nghĩa bài Do Thái. Không có báo cáo nào được công bố trước Chiến tranh thế giới thứ hai đề cập đến sự tồn tại của chủ nghĩa bài Do Thái đối với người Do Thái Hồng Kông. Trong thời kỳ đầu thuộc địa, các thương nhân Do Thái giàu có đến từ Anh thường được gọi là "người châu Âu da trắng" và được coi là tầng lớp đặc quyền của các thuộc địa Anh. Tuy nhiên, có những trường hợp ngay cả những thương gia Do Thái Bagdad giàu cũng bị từ chối tư cách thành viên Hồng Kông Hội (Hong Kong Club, thành lập năm 1846), nơi chỉ cho phép những người Anh theo Anh giáo.