✨Ngữ dụng học

Ngữ dụng học

Ngữ dụng học (pragmatics) là một chuyên ngành thuộc ngôn ngữ học và tín hiệu học nghiên cứu về sự đóng góp của bối cảnh tới nghĩa. Ngữ dụng học bao hàm cả Lý thuyết hành vi ngôn từ, Hàm ngôn hội thoại, tương tác lời nói và cả những cách tiếp cận khác tới hành vi ngôn ngữ trong triết học, xã hội học và nhân học. Khác với Ngữ nghĩa học nghiên cứu về nghĩa quy ước hoặc "mã hóa" trong một ngôn ngữ, Ngữ dụng học nghiên cứu về cách làm sao nghĩa lại được chuyển tải qua không chỉ cấu trúc và hiểu biết ngôn ngữ (ngữ pháp, từ vưng, v.v..) của người nói và người nghe, mà còn qua cả ngữ cảnh của phát ngôn, cùng với những hiểu biết có từ trước đó liên quan tới chủ đề, ý đồ được suy ra của người nói, và các yếu tố khác nữa. Theo cách nhìn này, Ngữ dụng học giải thích về sao người sử dụng ngôn ngữ lại có thể vượt qua những rào cản rõ ràng về sự mơ hồ nghĩa (hay lưỡng nghĩa), vì nghĩa phụ thuộc vào cách thức, vị trí, thời gian,v..v..của một phát ngôn.

Quá trình hình thành

Tuy là một ngành mới xuất hiện trong hệ thống ngôn ngữ học nhưng những vấn đề của ngữ dụng học đã được quan tâm từ rất lâu. Ngay từ thời Hi Lạp cổ đại, Aristote đã phát triển môn tu từ học cổ điển, trong đó nhấn mạnh đến việc vận dụng từ ngữ trong những tương tác thực tế để đạt đến những hiệu quả giao tiếp.

Năm 1913, nhà tín hiệu học Ch.S. Peirce khẳng định rằng khi nghiên cứu một tín hiệu, cần phải quan tâm đến cả ba bình diện gồm kết học, nghĩa học và dụng học. Ngữ dụng học hiện đại được xem là một phản ứng của giới ngôn ngữ học trước những luận điểm cấu trúc luận cực đoan của Ferdinand de Saussure. Saussure nêu ra những cặp lưỡng phân nổi tiếng trong ngôn ngữ, trong đó phải kể đến là ngôn ngữ/lời nói; nội tại/ngoại tại. Ông đề cao ngôn ngữ, tập trung sự chú ý vào ngôn ngữ học nội tại và sao lãng những thứ thuộc về ngoại tại.

Vào đầu thập niên 1960, cùng với sự xuất hiện của lý thuyết hành động ngôn từ(speech act theory) do J.L. Austin và J.Searle khởi xướng, ngữ dụng học bắt đầu bước vào thời kì phát triển mạnh mẽ, giải đáp và khám phá rất nhiều những địa hạt mới mẻ của ngôn ngữ học. Từ đây, ngôn ngữ học đã được mở rộng phạm vi quan tâm, bao quát đến từng lời nói cụ thể, từng giao tiếp cụ thể của con người.

Sự mơ hồ về nghĩa

Một câu như "You have a green light" là một câu mơ hồ về nghĩa. Nếu không có các yếu tố ngữ cảnh, danh tính người nói, mục đích của người nói, sẽ rất khó để hiểu nghĩa của câu này một cách rõ ràng. Thí dụ:

  • Bạn có một cái đèn màu xanh.
  • Bạn đang lái xe và gặp đèn xanh.
  • Bạn được cho phép tiếp tục một dự án.
  • Bạn có một cái đốm xanh sáng trên cơ thể. Tương tự, câu "Sherlock saw the man with binoculars" có thể có nghĩa rằng Sherlock theo dõi người đàn ông nào đó bằng ống nhòm, hoặc cũng có thể có nghĩa rằng Sherlock đang theo dõi một người đàn ông cầm cái ống nhòm (mơ hồ nghĩa cú pháp ). Nghĩa của một câu phụ thuộc vào khả năng hiểu ngữ cảnh và mục đích của người nói. Như đã được định nghĩa trong Ngôn ngữ học, một câu là một thực thể trừu tượng - một chuỗi các từ tách rời khỏi bối cảnh phi ngôn ngữ - đối lập với phát ngôn, một ví dụ điển hình của hành động ngôn từ trong một ngữ cảnh cụ thể. Một vật thể ý thức càng gắn bó chặt chẽ với các từ thông thường, thành ngữ, cụm từ, chủ đề bao nhiêu thì người khác càng có thể dễ dàng phỏng đoán nó bấy nhiêu; ngược lại nó càng tách rời khỏi các biểu ngữ thông thường và các chủ đề bao nhiêu thì các biến thể trong cách hiểu càng đa dạng bấy nhiêu. Điều này ám chỉ rằng câu thực ra về mặt bản chất là không có nghĩa; không có nghĩa nào được gán sẵn cho một câu hoặc từ, chúng chỉ có thể làm đại diện tượng trưng cho một ý tưởng. Câu "The cat sat on the mat" là một câu trong Tiếng Anh. Nếu một người gọi người khác là "The cat sat on the mat" thì đây là một ví dụ cho phát ngôn. Vì vậy, không có câu, biểu ngữ, thuật ngữ nào đại diện tượng trưng cho một ý nghĩa thực; nó không được xác định cụ thể (con mèo nào, ngồi trên tấm thảm nào?) và có thể mơ hồ về nghĩa.

Mặt khác, nghĩa của một phát ngôn được suy ra từ hiểu biết ngôn ngữ và hiểu biết phi ngôn ngữ về ngữ cảnh của phát ngôn đó (có thể đủ hoặc không đủ để xóa bỏ sự mơ hồ nghĩa). Trong toán học, có nghịch lý của Berry (Berry's paradox) chứa một từ mang nghĩa mơ hồ một cách hể thống "definable" (có thể định nghĩa). Sự mơ hồ về nghĩa của từ cho thấy rằng sức mạnh mô tả của bất cứ ngôn ngữ nào của con người đều có giới hạn.

Từ nguyên học

Thuật ngữ "pragmatics" có nguồn gốc từ Latin "pragmatics" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp πραγματικός (pragmatikos), có nghĩa "hợp cho hành động", có gốc từ πρᾶγμα (_pragma) "hành vi, hành động" _ và từ πράσσω (prassō), "chuyển đi, thực hành, đạt được".

Lĩnh vực nghiên cứu

  • Nghiên cứu về ý của người nói, không tập trung vào ngữ âm hay hình thái ngữ pháp của phát ngôn, mà tập trung tìm hiểu mục đích và niềm tin của người nói là gì.
  • Nghiên cứu về nghĩa trong ngữ cảnh và những ảnh hưởng của ngữ cảnh đó tới thông điệp. Nó yêu cầu những hiểu biết về danh tính của người nói, địa điểm, thời gian phát ngôn.
  • Nghiên cứu về hàm ngôn, cụ thể như những thứ được truyền đạt ngay cả khi chúng không được nhắc tới trực tiếp.
  • Nghiên cứu về quan hệ khoảng cách, cả về xã hội và vật chất giữa những người nói, để hiểu xem yếu tố nào xác định sự lựa chọn giữa cái được nói và cái không được nói.
  • Nghiên cứu về cái không được hàm ý, đối lập với cái được hàm ý, cụ thể như cái không được nói và không dự tính trước, hoặc không có ý đồ trước.
  • Cấu trúc thông tin, nghiên cứu về các cách phát ngôn được đánh dấu để vận hành hiệu quả nên chung của những thực thể được nhắc tới giữa người nói và người nghe
  • Ngữ dụng học hình thức, nghiên cứu về những yếu tố của nghĩa và cách sử dụng, với ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng, bằng cách sử dụng những phương pháp và mục tiêu của ngữ nghĩa học.

Cách dùng sở chỉ trong ngôn ngữ

Khi ta nói đến cách sử dụng sở chỉ trong ngôn ngữ (referential uses of language) là ta đang nói đến cách ta dùng các tín hiệu để tham chiếu tới các sự vật nhất định. Dưới đây là cách giải thích cho: 1) tín hiệu là gì, 2) nghĩa được hoàn thiện như thế nào dựa cách sử dụng chúng.

Một tín hiệu là một liên kết hoặc quan hệ dựa cái được biểu đạt (signified) và cái biểu đạt (signifier) như định nghĩa của Sausuure và Huguenin. Cái được biểu đạt là một số các thực thể hoặc khái niệm trong thế giới. Cái biểu đạt miêu tả cái được biểu đạt. Ví dụ như:

Cái được biểu đạt: khái niệm con mèo

Cái biểu đạt: từ "con mèo"

Mối quan hệ giữa chúng gán cho tín hiệu một ý nghĩa. Mối quan hệ này có thể được giải thích rõ hơn bằng cách xem xét chúng ta hiểu "nghĩa" như thế nào.

Các lĩnh vực liên quan

Có một sự "đan xen" nhất định giữa Ngữ dụng học và Ngôn ngữ học xã hội, bởi lẽ cả hai bộ môn này đều nghiên cứu về yếu tố nghĩa quyết định bởi cách sử dụng trong phát ngôn trong cộng đồng. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học xã hội thường có xu hướng quan tâm nhiều hơn tới các biến thể trong ngôn ngữ giữa các cộng đồng với nhau.

Ngữ dụng học giúp các nhà nhân chủng học liên hệ yếu tố ngôn ngữ tới các hiện tượng xã hội bao quát hơn; vì vậy nó ảnh hưởng tới cả bộ môn ngôn ngữ học nhân học. Vì ngữ dụng học chủ yếu miêu tả những yếu tố tác động trong một phát ngôn cụ thể, bao gồm cả những nghiên cứu về quyền lực, giới tính, danh tính, và sự tương tác của chúng với những hành vi ngôn từ cụ thể. Ví dụ, nghiên cứu về sự chuyển mã (code switching)có liên quan trực tiếp tới ngữ dụng học, vì một sự chuyển mã có tác động làm thay đổi lực ngữ dụng.

Theo Charles W. Morris, ngữ dụng học tìm hiểu mối quan hệ giữa các tín hiệu và người sử dụng nó, còn ngữ nghĩa học có xu hướng tập trung tới những thực thể hoặc ý tưởng mà một từ qui chiếu tới, và cú pháp học (Syntax) xác định mối quan hệ giữa các tín hiệu và biểu tượng. Ngữ nghĩa học là ý nghĩa trực kiện (hay nghĩa đen) của một ý tưởng còn ngữ dụng học là nghĩa hàm ẩn của ý tưởng đó.

Lý thuyết hành vi ngôn từ (Speech act Theory) mà tiên phong là J.L. Austin và sau đó được John Searle tiếp tục phát triển, xoay quanh ý tưởng về Ngôn hành (performative), một dạng của phát ngôn thực hiện chính hành động mà nó mô tả. Lý thuyết hành vi ngôn từ nghiên cứu về Hành động ngôn trung (Illocutionary Acts) có rất nhiều mục tiêu chung với ngữ dụng học, như đã phác họa ở trên.

Hình thức hóa Ngữ dụng học

Đã từng có rất nhiều tranh luận về ranh giới giữa Ngữ nghĩa học và Ngữ dụng học và đã có rất nhiều những cách thức hình thức hóa khác nhau về những khía cạnh của Ngữ dụng học có liên quan trực tiếp tới ngữ cảnh. Những trường hợp tiêu biểu là những tranh luận về Ngữ nghĩa học chỉ hiệu (Semantics of indexicals) và vấn đề về mô tả sở chỉ, một chủ đề được mở ra sau những học thuyết của Keith Donnellan. Một lý thuyết logic thông dụng về hình thức hóa Ngữ dụng học đã được Cảllo Dalla Pozza phát triển, mà theo ông, có thể liên kết Ngữ nghĩa học cổ điển (gán giá trị cho nội dung các mệnh đề là đúng hoặc sai) và Ngữ nghĩa học trực giác (gán với Lực ngôn trung). Cách biểu diễn ngữ dụng học hình thức được bắt nguồn từ ý tưởng của Frege về tín hiệu khẳng định như hình thức của hành vi khẳng định.

Ngữ dụng học trong lý thuyết văn học

Ngữ dụng học (mà cụ thể là khái niệm về Ngôn hành trong Lý thuyết hành vi ngôn từ) củng cố thêm có lý thuyết của Judith Butler về Ngôn hành về giống (Gender performativity). Trong cuốn Gender Trouble, bà cho rằng giống và giới không phải là các phạm trù tự nhiên, mà được phân vai trong xã hội bằng các "Hành vi lặp lại" (reiterative acting).

Trong cuốn Exciteable speech bà mở rộng thêm lý thuyết ngôn hành sang cả Phát ngôn thù ghét và Sự kiểm duyệt ngôn từ, bà tranh luận rằng sự kiểm duyệt ngôn từ tất yếu sẽ làm tăng sức mạnh cho bất cứ diễn ngôn nào nó cố kìm hãm và từ đó, vì Nhà nước là cơ quan nắm toàn bộ quyền lức để định nghĩa Phát ngôn thù ghét, chính Nhà nước khiến cho nó trở thành ngôn hành.

Jacques Derrida nhận thấy rằng một số công trình Ngữ dụng học cũng phù hợp với chương trình ông đã phác thảo trong cuốn Of Grammatology.

Émile Benveniste tranh luận rằng đại từ "I" và "you" về cơ bản là khác biệt so với các đại từ khác vì vai trò sáng tạo ra các chủ thể

Gilles Deleuzevà Félix Guattari thảo luận về Ngữ dụng học trong chương thứ tư của cuốn _A Thousand Plateaus(20 tháng 11 năm 1923 -- Những định đề Ngôn ngữ học). _Họ đưa ra ba kết luận từ Austin: (1) Một phát ngôn ngôn hành không trao đổi thông tin về một hành động một cách gián tiếp - mà nó chính là hành động;

(2) Mọi khía cạnh của Ngôn ngữ (Ngữ nghĩa học, Cú pháp học, hoặc cả Âm vị học) về bản chất đều tương tác với Ngữ dụng hoc; (3) Không có sự phân biệt nào giữa Ngôn ngữ và Lời nói. Kết luận cuối cùng này nhằm bác bỏ sự phân biệt của Saussure giữa langue và parole (Ngôn ngữ và Lời nói) và sự phân biết của Chomsky giữa cấu trúc bề mặt và cấu trúc tầng sâu.

Một số lý thuyết đáng lưu ý

  • Hành động ngôn từ (do Austin và Searle đề xuất)
  • Nguyên tắc trong giao tiếp và các phương châm hội thoại (do Paul Grice đề xuất)
  • Lý thuyết lịch sự (do Lakoff, Leech, Brown và Levinson phát triển)
  • Các phương châm về tính lịch sự (Geoffrey Leech)
  • Nghĩa tiền giả định (Levinson)
  • Các phổ niệm ngữ dụng (Jürgen Habermas)
  • Lý thuyết tương đối (Dan Sperber và Deirdre Wilson) 
  • Lý thuyết về thang độ (Laurence R. Horn)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ dụng học (pragmatics)** là một chuyên ngành thuộc ngôn ngữ học và tín hiệu học nghiên cứu về sự đóng góp của bối cảnh tới nghĩa. Ngữ dụng học bao hàm cả Lý thuyết
**Ngữ nghĩa học** là nghiên cứu ngôn ngữ và triết học về ý nghĩa trong ngôn ngữ, ngôn ngữ lập trình, logic hình thức và ký hiệu học. Nó liên quan đến mối quan hệ
**N****gôn ngữ toán học** là hệ thống ngôn ngữ được sử dụng bởi các nhà toán học để truyền đạt ý tưởng toán học với nhau. Ngôn ngữ này bao gồm một nền tảng từ
**Trường Trung học phổ thông chuyên Ngoại ngữ** (tiếng Anh: _Foreign Language Specialized School_; viết tắt: **_PTCNN_**, **_CNN_** hoặc **_FLSS_**) là một trường trung học phổ thông chuyên hệ công lập tại Hà Nội, Việt
**Ngữ âm học** là một nhánh của ngôn ngữ học nghiên cứu âm thanh của tiếng nói con người, hoặc - như trường hợp thủ ngữ - những khía cạnh tương đương của kí hiệu
Dưới đây là danh sách các **thuật ngữ dùng trong tin học**, xếp theo thứ tự chữ cái của các từ tiếng Anh. ## A
__NOTOC__ __NOTOC__
## B
__NOTOC__ __NOTOC__
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Trường Đại học Ngoại ngữ _–_ Tin học Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Foreign Languages – Information Technology_, tên viết tắt: **HUFLIT**) là một đại học tư
**Trường Đại học Ngoại ngữ** ( – **VNU-ULIS**), là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội, được xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam.
thumb|Ảnh chụp Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế **Đại học Ngoại ngữ Huế** là một trường đại học trực thuộc hệ thống Đại học Huế, được xếp vào nhóm đại học trọng điểm
**Ngữ thời học** (tiếng Anh: _glottochronology_; bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Attica γλῶττα "lưỡi, ngôn ngữ" và χρόνος "thời gian") là một phân ngành của ngôn ngữ học so sánh, theo đó vận dụng
Đây là một danh sách một số thuật ngữ được sử dụng trong hình học Riemannian và hình học metric — không bao gồm các thuật ngữ của tô pô vi phân. Các bài viết
Dưới đây là danh sách các **thuật ngữ dùng trong ngữ âm học**, xếp theo thứ tự chữ cái của các từ tiếng Anh.
**Thuật ngữ kỳ học** (hay **thuật ngữ cờ học**) là danh pháp dùng trong kỳ học, môn học về các lá cờ, để miêu tả một cách chính xác các thành phần và các đặc
**Ngôn ngữ học** hay **ngữ lý học** là bộ môn nghiên cứu về ngôn ngữ. Người nghiên cứu bộ môn này được gọi là nhà ngôn ngữ học. Nói theo nghĩa rộng, nó bao gồm
**Ngôn ngữ** là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó
**Ngôn ngữ học xã hộ**i (_Sociolinguistics_) là ngành học nghiên cứu ảnh hưởng của bất kỳ và tất cả các lĩnh vực xã hội, bao gồm các khái niệm văn hóa, kỳ vọng và ngữ
Trong ngôn ngữ học, **ngữ pháp** (hay còn gọi là **văn phạm**, tiếng Anh: **grammar**, từ Tiếng Hy Lạp cổ đại _grammatikí_) của một ngôn ngữ tự nhiên là một tập cấu trúc ràng buộc
**Vị ngữ** (chữ Anh: _predicate_) có hai định nghĩa: # Nghĩa rộng: Trong ngữ pháp truyền thống, biểu thị bộ phận nằm ngoài chủ ngữ trong câu, có mối quan hệ trần thuật hoặc giải
Trong ngôn ngữ học xã hội, **ngữ vực** là biến thể ngôn ngữ được sử dụng nhằm mục đích và tình huống giao tiếp cụ thể. Ví dụ, khi nói chuyện chính thức hoặc trong
**Phương án bính âm Hán ngữ** (giản thể: 汉语拼音方案, phồn thể: 漢語拼音方案, Hán Việt: _Hán ngữ bính âm phương án_), thường gọi ngắn là **bính âm**, **phanh âm** hay **pinyin**, là cách thức sử dụng
Combo 2 cuốn Giáo Trình Hán Ngữ Sách học Tiếng Trung dành cho người Việt Giáo Trình Hán Ngữ Tập 1 Giáo Trình Hán Ngữ Tập 2 Học bằng App McBooks Tặng kèm bookmark GreenLife
**Khoa Quốc tế Pháp ngữ** (viết tắt là **IFI** từ tên tiếng Pháp **International Francophone Institute**) hoặc còn gọi là **Viện Quốc tế Pháp ngữ**, là một cơ sở đào tạo bậc đại học và
**Ngữ liệu tiếng nói** (hay còn gọi là **ngữ liệu lời nói**) là một cơ sở dữ liệu các tệp âm thanh giọng nói và văn bản phiên âm. Trong công nghệ tiếng nói (speech
**Nghiên cứu văn học** là một chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn mà đối tượng nghiên cứu là nghệ thuật ngôn từ (văn học). Ở thời điểm hiện tại, nghiên cứu văn
**Trường Đại học Ngoại ngữ** ( – **UFL**) được thành lập theo quyết định số 709/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ trên cơ sở tách và tổ chức lại
**Ký hiệu học** là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về các ký hiệu và quá trình ký hiệu, biểu hiện, chỉ định, sự giống nhau, tương tự, phép ẩn dụ, biểu tượng, ý nghĩa,
**Thần học chính trị** là một thuật ngữ đã được sử dụng trong thảo luận về những cách mà các khái niệm thần học hoặc cách suy nghĩ liên quan đến chính trị. Thuật ngữ
Trong ngôn ngữ học lý thuyết, **nhập cảm** (tiếng Anh: empathy) là việc người nói đồng nhất mình với 'người/vật tham gia' trong sự kiện hoặc trạng thái mà người nói đó mô tả trong
Con Sẽ Ngủ Đúng Giờ - I Will Sleep On Time Với lối kể chuyện gần gũi, minh họa dễ thương, bộ sách Kỹ năng trong sinh hoạt sẽ mang đến cho các bé những
**Ngôn ngữ trung gian chung **hoặc **Ngôn ngữ trung gian dùng chung** (**Common Intermediate Language - CLI**), là ngôn ngữ lập trình có thể đọc được của con người ở mức thấp nhất được xác
thumb|[[Dấu cộng và trừ|Ký hiệu dấu cộng và trừ được sử dụng để hiển thị dấu của một số.]] Trong toán học, khái niệm của **dấu** (tiếng Anh: _sign_) bắt nguồn từ thuộc tính của
nhỏ|430x430px|BrdU (màu đỏ), thể hiện quá trình neurogenesis trong trung khu dưới hạt (SGZ) của vùng DG hồi hải mã. Hình ảnh minh họa này của Faiz và cộng sự, năm 2005. **Khoa học thần
**Ngôn ngữ LGBT** là môn nghiên cứu từ ngữ của cộng đồng LGBT. Các thuật ngữ liên quan hoặc đồng nghĩa phát triển bởi William Leap vào những năm 1990, bao gồm **ngôn ngữ màu
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Ngữ hệ Hán-Tạng**, trong một số tư liệu còn gọi là **ngữ hệ Liên Himalaya**, là một ngữ hệ gồm trên 400 ngôn ngữ. Ngữ hệ này đứng thứ hai sau ngữ hệ Ấn-Âu về
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
**Viện Ngôn ngữ học** (tên tiếng Anh: _Institute of Linguistics_) là một viện nghiên cứu khoa học chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Viện có chức năng nghiên cứu
nhỏ|Tấm biển tại [[Ung Hòa cung tại Bắc Kinh, Trung Quốc, từ phải sang trái viết bằng tiếng Mãn, tiếng Hán, tiếng Tạng, tiếng Mông Cổ.]] nhỏ|phải|Biểu trưng của chính quyền Liên bang [[Thụy Sĩ,
**Triết học toán học** là nhánh của triết học nghiên cứu các giả định, nền tảng và ý nghĩa của toán học, và các mục đích để đưa ra quan điểm về bản chất và
nhỏ|Giao tiếp phi ngôn ngữ giữa hai người tại [[Tây An, Trung Quốc.]] **Giao tiếp phi ngôn ngữ** giữa con người là sự giao tiếp bằng cách gửi và nhận những tín hiệu phi ngôn
**Nguồn gốc ngôn ngữ** và quan hệ của ngôn ngữ đối với tiến hóa của loài người là chủ đề học thuật đã được bàn luận trong nhiều thế kỷ. Mặc dù vậy, ta vẫn
thumb|Các ngôn ngữ ở Hồng Kông Luật Cơ bản của Hồng Kông quy định tiếng Anh và tiếng Trung là hai ngôn ngữ chính thức của Hồng Kông. Trong thời kỳ thuộc địa của Anh,
phải|nhỏ|402x402px|[[Mã nguồn của một chương trình máy tính đơn giản được viết bằng ngôn ngữ lập trình C. Khi được biên dịch và chạy, nó sẽ cho kết quả "Hello, world!".]] **Ngôn ngữ lập trình**
**Trường Đại học Vinh** () là một đại học đa ngành, đa lĩnh vực, cấp vùng Bắc Trung Bộ, trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo , là một trường đại học lớn có
thumb|thumbtime=5|_Preservation of the Sign Language_ (1913) nhỏ|Juan Pablo Bonet, _Reducción de las letras y arte para enseñar a hablar a los mudos_ (Madrid, 1620). **Ngôn ngữ ký hiệu** hay **ngôn ngữ dấu hiệu**, **thủ ngữ**
**Trường Đại học Trà Vinh** (tiếng Anh: _Tra Vinh University - TVU_) là một trường đại học đa ngành tại tỉnh Trà Vinh thuộc nhóm trường có tốc độ phát triển bền vững nhanh nhất
**Thuyết tương đối ngôn ngữ** (), hay **giả thuyết Sapir-Whorf**, cho rằng cấu trúc ngôn ngữ ảnh hưởng đến tư duy và khả năng nhận biết thế giới xung quanh. Đó là, ngôn ngữ quyết
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
**Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An** được thành lập tại Quyết định số 542/QĐ-TTg ngày 4/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ. ## Lịch sử hình thành và phát triển Trường Đại học