✨Ngân Giang (nhà thơ)

Ngân Giang (nhà thơ)

Ngân Giang (tên khai sinh: Đỗ Thị Quế, 1916 - 2002) là một nữ thi sĩ Việt Nam. Bà viết nhiều thơ mang hơi hướng thơ Đường, trong số đó có nhiều bài nổi bật như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa, Bạch Đằng giang, v.v. Hội Nhà văn Việt Nam sớm có văn bản đề nghị Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đặt tên một con đường mang tên nữ sĩ Ngân Giang như báo Tổ quốc viết.

Tiểu sử

Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác: Hạnh Liên, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên.

Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình Nho học tại phố Hàng Trống, Hà Nội; nhưng quê quán gốc của bà thì ở thôn Hướng Dương, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Thủ đô Hà Nội).

Dòng họ của bà tuy đa phần sống bằng cái nghề thêu ren và bốc thuốc bắc, nhưng lại là một dòng họ có truyền thống văn học. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm hay chữ, ông nội là một nho sĩ nổi tiếng ở đất Bắc Hà, bạn thân của thi hào Nguyễn Du; còn cha bà, nhờ được ông nội dạy cho chữ Hán, đàn nguyệt nên cũng nổi danh không kém. Vì thế, lên 6 tuổi, Ngân Giang đã được cha dạy cho chữ Hán, học "ké" chữ quốc ngữ của một thầy xóm hàng xóm và được người bác gái làm nghề thuốc yêu thích thơ Đường, dạy cho cách làm thơ phú... Nhờ vậy, mới lên 8 tuổi, bà đã có bài thơ đầu tiên tên "Vịnh Kiều" đăng trên báo Đông Pháp, với bút danh Nguyệt Quyên.

Năm 9 tuổi, đọc kinh Phật, tự cảm thấy mình mắc nhiều tội lỗi quá, nên bà định quyên sinh. Rất may, người nhà đã kịp thời phát hiện và cứu chữa.

Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu tiên Giọt lệ xuân, ký bút danh Hạnh Liên, do nhà xuất bản Tân Dân ấn hành.

Hiểu tính nết của con, cha bà bắt buộc bà phải lấy chồng. Nhưng rồi, theo Lê Thọ Bình thì: :"...tổ ấm gia đình cũng không thể giữ nổi con tim sôi nổi, ưa hoạt động của nàng. Nhà thơ tìm đến với phong trào cách mạng - Đó là vào năm 1935 - Bắt đầu bằng việc làm giao thông cho Đoàn Thanh niên cộng sản. Cũng từ thời gian này, bút lực của nữ sĩ càng thêm sung sức hơn. Vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì "cô Hạnh Liên đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo họa cho cả dòng họ". Một đêm mưa gió bão bùng, bụng mang dạ chửa, Hạnh Liên lại gieo mình xuống Hồ Tây. "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân" - sau này nữ sĩ nhớ lại. Rồi bà bảo: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp". Vì là nghiệp chướng nên cái nợ văn chương cứ đeo đuổi mãi."

Năm 20 tuổi, bà viết cho tờ Ngọ báo, Bắc Hà và học đàn tại Hàn lâm âm nhạc do Hội Khai trí Tiến Đức chủ trì.

Năm 21 tuổi, bà có thơ in chung trong cuốn Duyên văn.

Năm 22 tuổi (1938), bà rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho Điện Tín nhật báo, báo Mai. Sau đó, bà trở ra Hà Nội viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Đàn bà...

Năm sau (1939), thi phẩm "Trưng nữ vương" ra mắt, gây tiếng vang trên thi đàn. Đầu năm 1944, bà tham gia mặt trận Việt Minh. Và cũng trong năm này, bà cho in tập thơ Tiếng vọng sông Ngân.

Năm 1945, bà bị hiến binh Nhật bắt ở nhà Dầu (Khâm Thiên), bị giam cầm khoảng một tháng. Khi được tha, bà tham gia cướp chính quyền rồi được cử làm Trưởng đoàn phụ nữ Cứu quốc TP. Hà Nội, sau phụ trách Phòng Tuyên truyền đường lối chính sách của Mặt trận Việt Minh.

Năm 1946, Ngân Giang phụ trách Ban Lễ tân Bộ Nội vụ, cho in cuốn Những ngày trong hiến binh Nhật, nhưng sách vừa in xong chưa kịp hành, thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Ngay sau đó, bà ra chiến khu công tác tại Sở tuyên truyền liên khu I.

Năm 1949, do hoàn cảnh gia đình, bà quay về Hà Nội, vẫn làm thơ đăng trên các báo Hồ Gươm, Quê hương, Tia sáng, Giang sơn... ký bút danh "Nàng không tên".

Năm 1954 hòa bình lập lại, Ngân Giang làm việc ở Sở văn hóa Hà Nội.

Năm 1957, bà được kết nạp chính thức vào Hội Nhà Văn Việt Nam.

Năm 1958 - 1961, bà làm việc tại Hội Nhà Văn Việt Nam.

Từ năm 1961, được sự đồng ý của Hội Nhà Văn, bà về quê sinh sống và hoạt động văn nghệ quần chúng. Tại đây bà khước từ quan hệ với một người đàn ông nên bị ông ta thù ghét, thường xuyên viết thư nặc danh vu cáo là "Nhân văn", là thiếu phẩm hạnh v.v. Bị bức bách về tinh thần, buồn chán, Ngân Giang quay trở lại Hà Nội để rồi, ngày ngày, bà ra bãi sông Hồng quét lá khô để bán, tối về rửa bát thuê, nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho những đứa con lay lắt sống qua ngày. Rồi bà được nhận vào Hợp tác xã thêu ren. "Một bận người ta phát động chống tiêu cực, tôi mạnh dạn vạch mặt kẻ tham ô, nào ngờ tham ô thì không chết mà mình bị đuổi việc", bà kể. Khi không còn đủ sức để ra bờ sông quét lá nữa, bà ra đầu đường mở quán bán hàng nước. Bà Ngân Giang đã sống hẩm hiu như vậy, trải hơn ba mươi năm cho đến ngày từ giã cõi đời. Bà mất ngày 17 tháng 8 năm 2002 và được chôn tại quê quán gốc của bà là làng Hướng Dương, huyện Thường Tín.

Bà là mẹ của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Những tác phẩm chính

Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), Nhà xuất bản Tân Dân 1932 Tiếng vọng sông Ngân, Nhà xuất bản Lê Cường 1944. Những ngày trong hiến binh Nhật, Nhà xuất bản Đức Trí 1946 Những người sống mãi, Nhà xuất bản Sự Thật 1973

  • Ba tập Thơ Ngân Giang, Nhà xuất bản Phụ Nữ 1989 - Nhà xuất bản Trẻ 1991 - Nhà xuất bản Phụ Nữ 1994

    Đánh giá

    Trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây thì Ngân Giang vẫn gắn bó với thơ Đường luật và các thể thơ dân tộc. Nặng lòng với quê hương, nhiều bài thơ của bà mang hình ảnh đất lạnh, xóm nhèo, chợ chiều, sông quạnh...với một cảm tình nồng hậu nhưng man mác buồn. Tuy Ngân Giang có những bài thơ nổi tiếng một thời như Trưng Nữ Vương, Bạch Đằng giang...nhưng nguồn mạch chủ yếu của nhà thơ vẫn là những mối tình dang dở, bất hạnh…

Thiên tài bị bỏ quên

Thi sĩ Nguyễn Vỹ viết: :"Không giống như Mộng Sơn, Anh Thơ, Ngân Giang nữ sĩ sống rất nhiều về tình yêu, đau khổ rất nhiều về tình yêu. Nhưng chẳng bao giờ nàng có hạnh phúc với tình yêu cả… :"Và không biết vì lý do gì, Ngân Giang không thích đăng thơ trên báo, nhưng thi thoảng được nghe thơ Ngân giang, chúng tôi cảm động, khoái trá, bởi phong vị sầu mơ da diết, ngào ngạt trong thơ".

Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản VHTT, 1999 cho biết: :"Tiếng thơ Ngân Giang một thời vang vọng, như có lần thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) lúc giảng dạy tại Đại học văn khoa Sài Gòn, khi giới thiệu bài thơ Trưng Nữ vương của bà, vừa ngâm xong thơ, ông đột quị. Sinh viên đưa đi cấp cứu nhưng vừa đến bệnh viện thì ông đã ra người thiên cổ. Âu cũng là một thi thoại văn chương đáng trân trọng.".

Nữ sĩ Ngân Giang nổi tiếng là một nhà thơ nữ thời tiền chiến và đã để lại nhiều áng thơ hay. Khi thấy bà không có tên trong Thi Nhân tiền chiến của Hoài Thanh& Hoài Chân, cũng không có tên trong Nhà Văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhà thơ Thẩm Thệ Hà đã than phiền: :"Điều làm cho ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế?"

Bà hoàn toàn vắng bóng trong Từ điển văn học, bộ từ điển chuyên ngành văn chương đầu tiên được làm ở ta, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội in làm hai tập, vào các năm 1983, 1984. Mãi đến hai chục năm sau đó, khi tái bản Từ điển văn học, người ta mới sực nhớ ra, và thấy không thể không nói đến Ngân Giang. (Từ điển văn học lần này in từ Nhà xuất bản Thế giới, năm 2004).

Trích thơ

:Trưng nữ vương :(trích) :''...Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận :''Non hồng quét sạch bụi trần ai :''Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận :Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời...

:''Ải bắc quân thù kinh vó ngựa :''Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi :''Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, :''Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi

:(Ngân Giang. 1939)

(Nhà thơ Đông Hồ trong một lần giảng bài thơ "Trưng Nữ Vương" của nữ sĩ Ngân Giang, tại Đại học Văn khoa Sài Gòn vào ngày 25-3-1969 vì quá xúc động trước vẻ đẹp của thơ, nên ông đã bị đột tử (tai biến mạch máu não) ngay trên bục giảng đường).

Khác với "Trưng nữ vương", "Xuân chiến địa"... (có giọng điệu trầm hùng), đa phần thơ của nữ sĩ Ngân Giang như "Hình ảnh", "Thôn lạ đêm trăng", "Sau phút biệt ly", "Chiều thu", "Xuân mong đợi", "Mười bài tâm sự"... đều ẩn chứa ít nhiều nỗi ưu tư, quạnh quẽ, chán chường... Giới thiệu một bài:

:Hình ảnh :Giờ này trăng chửa qua rèm lụa, :Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây :Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa, :Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây. :Tưởng ai thức trắng đêm dài viết, :Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy :Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn, :Về đi, vườn ruộng ngát hương say...

Chú thích và tham khảo

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngân Giang** (tên khai sinh: **Đỗ Thị Quế**, 1916 - 2002) là một nữ thi sĩ Việt Nam. Bà viết nhiều thơ mang hơi hướng thơ Đường, trong số đó có nhiều bài nổi bật
**Lữ Giang**, tên thật là **Trần Xuân Kỳ** (1928–2005), là một nhà thơ Việt Nam, được biết nhiều là tác giả bài thơ _Tiếng đàn bầu_ được nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc. ##
**Giang Nam** (tên thật là **Nguyễn Sung**; 1929 – 2023) là nhà thơ, chính khách Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001. Bài thơ "_Quê hương_" là
**Đông Hồ** (10 tháng 3 năm 1906 - 25 tháng 3 năm 1969), tên thật **Lâm Tấn Phác**, tự _Trác Chi_, hiệu _Đông Hồ_ và _Hòa Bích_; các bút hiệu khác: _Thủy Cổ Nguyệt, Đại
:_Bài này viết về thi sĩ Hoàng Cầm, các nghĩa khác xem tại Hoàng Cầm (định hướng)_ **Hoàng Cầm** tên thật là **Bùi Tằng Việt**, (22 tháng 2 năm 1922 – 6 tháng 5 năm
**Quỳnh Dao** (1918–1947) là một nhà thơ Việt Nam trong phong trào Thơ mới. ## Thân thế Nhà thơ Quỳnh Dao có tên thật là **Đinh Nho Diệm**, sinh tháng 1 năm 1918 (cuối năm
**Anh Thơ** (25 tháng 1 năm 1918 - 14 tháng 3 năm 2005), tên thật là **Vương Kiều Ân**, các bút danh khác: _Hồng Anh_, _Tuyết Anh_, _Hồng Minh_; là một nhà thơ nữ Việt
**Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời** () là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo México. Nhà thờ tọa lạc trên đỉnh khu vực linh thiêng của người Aztec
nhỏ|upright=1.3|Hai [[Mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh, Mái vòm bên trên Rotunda ở trên nóc có lá cờ Thập Tự Thánh Georges và mái vòm nhỏ hơn ở phía trên Catholicon, Tháp giáo đường
**Nhà thờ và phần mộ Danh nhân Đào Hữu Ích** tọa lạc tại thôn Trung Bằng, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa
**Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn** (hay **Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, tiếng Anh: _Immaculate Conception Cathedral Basilica_, tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Saïgon_), thường được
**Kim Tuấn** (1938-2003) là một nhà thơ tiêu biểu trước 1975. Hai ca khúc phổ thơ của ông nổi tiếng là **Anh cho em mùa xuân** (Nguyễn Hiền) & **Những bước chân âm thầm** (Y
**Nhà thờ chính tòa Modena** (tiếng Ý: _Duomo di Modena_), ở thành phố Modena, Ý, là một trong số các tòa nhà theo lối kiến trúc Roman quan trọng nhất ở châu Âu. Cùng với
thumb|Video Nhà thờ Wells nhìn từ trên không thumb|Từ Hồ phản chiếu trong khuôn viên của [[Cung điện Giám mục, Wells|Cung điện Giám mục]] **Nhà thờ chính tòa Wells** () là nhà thờ Anh giáo
**Lê Văn Tất** (1917 – 1983) là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Ông được biết đến qua một số tác phẩm thơ ca với bút danh **Thần Liên**, đồng thời cũng là
**Quang Dũng** (tên khai sinh là **Bùi Đình Diệm**; sinh 11 tháng 10 năm 1921 – mất 13 tháng 10 năm 1988) là một nhà thơ Việt Nam. Ông là tác giả của một số
**Thu Bồn** (1 tháng 12 năm 1935 – 17 tháng 6 năm 2003), tên thật là **Hà Đức Trọng**, là một nhà thơ, nhà văn người Việt Nam. Thu Bồn được nhận nhiều giải thưởng
**Nhà thờ bằng ván gỗ ở Urnes** (tiếng Na Uy: _Urnes stavkirke_) là một nhà thờ làm bằng cột và các ván gỗ ghép lại, ở nông trang Ornes, gần vịnh hẹp Lustrafjorden tại thị
Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long nhỏ|Giáng Sinh tại Nhà thờ chính toà Vĩnh Long **Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long** (tên chính thức: **Nhà thờ chính tòa Thánh Anna**) là nhà thờ chính tòa
**Nhà thờ chính tòa tối cao của Thánh Phêrô tại Trier** (), hoặc **Nhà thờ chính tòa Trier** () là một nhà thờ Công giáo Rôma ở Trier, Rheinland-Pfalz, Đức. Đây là nhà thờ lâu
**Hồ Thành Công**, thường được biết đến với bút danh **Thanh Thảo** (sinh ngày 16 tháng 2 năm 1946), quê ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Là một nhà thơ kiêm
Nhà thơ **Hoài Anh** **Hoài Anh** (8 tháng 7 năm 1938 – 24 tháng 3 năm 2011) là một nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình, nhà biên kịch của Việt Nam. Ông quê ở
**Định Hải** (tên khai sinh là **Nguyễn Biểu,** sinh năm 1937) là nhà thơ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Bài thơ _Bài ca trái đất_
**Nguyễn Đức Sơn** (18 tháng 11 năm 1937 – 11 tháng 6 năm 2020) là nhà thơ quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà,Thừa Thiên Huế ## Sự nghiệp Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn
**Bùi Giáng** (17 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 10 năm 1998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là:
**Anh Ngọc** (tên khai sinh là **Nguyễn Đức Ngọc,** sinh năm 1943) là nhà thơ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012. Ông là Đại tá Quân
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
Các đoàn [[chèo, nhà hát chèo Việt Nam 2016]] **Nhà hát Chèo Bắc Giang** là đơn vị hoạt động nghệ thuật, có trụ sở tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Với lịch sử
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Ngân Giang** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Vỹ**, 1946 – 2009) là một nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam, hoạt động nghệ thuật tại Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông còn có
**Nguyễn Giang** (1910-1969), là họa sĩ và là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. ## Tiểu sử sơ lược **Nguyễn Giang** sinh tại Hà Nội. Ông là con của nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh,
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
**Nhà thờ họ Đào Bá** là một di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia, có địa chỉ tại thôn Lưu Khê, Quảng Yên, Quảng Ninh. Thủy tổ là cụ Đào Bá Lệ là
**Học viện Ngân hàng** (tiếng Anh: _Banking Academy of Vietnam_ – **BAV**, tiền thân là Trường Cao cấp Nghiệp vụ Ngân hàng) được thành lập từ năm 1961. Học viện Ngân hàng là trường đại
**Nguyễn Kim Ngân** (sinh 13 tháng 7 năm 1946) là một nhà sư phạm và nhà thơ danh tiếng người Việt Nam. Ông là tác giả của bài thơ "Người mẹ Bàn Cờ", được nhạc
thumb|Joachim Beuckelaer, 'Nhà thổ', 1562 thumb|Nhà thổ Pascha ở Cologne, Đức, là nhà thổ lớn nhất châu Âu. Trong [[World Cup FIFA 2006, hình ảnh có cờ Ả Rập Xê Út và cờ Iran đã
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/4/1963 với tổ chức tiền thân
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 01/4/1963 với tổ chức tiền thân
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**_Bài thơ Đông – Tây_** (tiếng Anh: **_The Ballad of East and West_**) (tên bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Viết Thắng) là một bài thơ của nhà thơ Anh, Rudyard Kipling (giải Nobel Văn
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
**Tiếu ngạo giang hồ** được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung, với nhiều thành công về nội dung, cốt truyện, thủ pháp văn học. _Tiếu ngạo giang hồ_
**Cần Thơ** là thành phố trực thuộc trung ương nằm ở trung tâm thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. ## Thời Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn Vào năm Mậu Tý 1708, ông
**Hắc Long Giang** () là một tỉnh phía đông bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Hắc Long Giang là tỉnh đông thứ mười bảy về số dân, đứng thứ hai mươi ba về kinh tế
**Chiết Giang ** (浙江) là một tỉnh ven biển phía đông của Trung Quốc. Tên gọi Chiết Giang lấy theo tên cũ của con sông Tiền Đường chảy qua Hàng Châu - tỉnh lị Chiết
**Cuộc chinh phục Guatemala của Tây Ban Nha** là một chuỗi các xung đột dai dẳng trong thời kỳ Tây Ban Nha thuộc địa hóa châu Mỹ ở nơi ngày nay là đất nước Guatemala.
**Bắc Giang** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà
**Mỹ Tho** (美湫) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Tiền Giang cũ, Việt Nam. Thành phố Mỹ Tho hiện là đô thị loại I, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. Đây
nhỏ|phải|Tượng thờ Quốc mẫu Âu Cơ tại Đền Hùng trong Công viên Tao Đàn nhỏ|phải|Ban thờ Tam Tòa Thánh mẫu trong Phật điện của Tu viện Vĩnh Nghiêm thuộc Quận 12 Điện thờ [[Liễu Hạnh