✨Mười hai chiếc ghế

Mười hai chiếc ghế

Mười hai chiếc ghế (, ) là một tiểu thuyết trào phúng cổ điển của nhóm tác giả Liên Xô Ilf và Petrov, được san hành vào năm 1928. Cốt truyện kể về các hành trình các nhân vật đi tìm kho báu giấu bên trong một chiếc ghế. Cuốn tiểu thuyết phần tiếp theo được xuất bản năm 1931. Mười hai chiếc ghế đã được chuyển thể thành các hình thức nghệ thuật khác, chủ yếu là phim ảnh.

Lịch sử

Theo hồi kí tác giả Yevgeny Petrov, khoảng tháng 08 năm 1927, ở tòa soạn tạp chí Tiếng Còi, trong chốc bốc đồng ông tuyên bố với bào huynh - văn sĩ Valentin Katayev - rằng mình mong trở thành "Dumas cha" ở Tô Liên. Đáp lại, Valentin Katayev chỉ gợi ý rằng, ông muốn Ilf & Petrov hãy sáng tác một truyện phiêu lưu về món tiền giấu trong ghế. Kì thực, điều này khởi phát từ thói quen phổ thông ở bất cứ đâu, nhưng Valentin Katayev đề nghị nhóm tác gia phải thiết kế tình huống sao cho mãi về sau độc giả vẫn phải thừa nhận họ là bậc thầy văn chương. Vậy là trong thời gian giá rét nhất, tức là từ tháng 09 tới tháng 12, Ilf & Petrov chỉ ở lì trong phòng soạn sách.

Đến tháng 01 năm 1928, tập thủ bản đã theo một xe trượt tuyết thẳng tới tòa báo Tiếng Còi và mang về niềm hân hoan thắng lợi. Ngay sau đó, nhóm tác giả kí giao kèo đăng dài kì trên tạp chí Ba Mươi Ngày từ tháng 01 tới tháng 07 cùng năm, kèm những minh họa của tay bút Mikhail Cheremnykh. Việc ấn loát thành sách được tiến hành rất thận trọng tại nhà in Điền Địa Công Xưởng Odesa, sở dĩ tiến độ phải thực thi chậm là do chờ hoàn tất khâu kiểm duyệt theo quy định đương thời. Nhưng chưa hết, trong 10 năm từ 1928 tới 1938, đã có tối thiểu hơn 3 lần hiệu chính. Văn bản 1938 được coi là chính thức và phổ biến tự bấy tới nay.

Năm 1928, sự thành công của tiểu thuyết đầu tay Mười hai chiếc ghế khiến độc giả đua nhau gửi thư tới tòa soạn tạp chí Ba Mươi Ngày yêu cầu Ilf & Petrov hồi sinh nhân vật Ostap Bender. Để đáp lại thỉnh nguyện thư, trong năm 1929 nhóm tác gia Ilf & Petrov bắt đầu soạn cuốn nối tiếp. Qua tới mấy chục lần cân nhắc, cuối cùng nhan đề Con bê vàng (Золотой телёнок) được chọn.

Hình tượng "con bê vàng" ẩn dụ một truyền thuyết trong Xuất Ai-cập kí : Khi thầy Moshe lên núi Sinai, người Do Thái đã bội giáo để đúc ngẫu tượng bò vàng và mặc sức hoan lạc. Do đó, "con bê vàng" hàm nghĩa của cải xa hoa, hay cái dục vọng chiếm đoạt của báu. Ở truyện, "con bê vàng" là khối tài sản kếch sù của các vị quý nhân cũ hoặc giới hào phú nổi lên nhờ chính sách NEP.

Tiểu thuyết Con bê vàng được chia thành ba phần, đăng dài kì trên tờ Ba Mươi Ngày kể từ tháng 01 năm 1931. Tuy nhiên, trong khi tại Mĩ, Anh, Đức, Áo rất hồ hởi đón nhận nhờ sức ảnh hưởng của cuốn trước (dịch phẩm Anh văn thậm chí ra mắt độc giả trước cả nguyên tác Nga văn), thì tại Tô Liên sách bị báo giới đả kích kịch liệt vì cho rằng vi phạm nguyên lý sáng tạo văn chương vô sản là "cảm thông đặc biệt" đối với tên vô lại Ostap Bender (опасного сочувствия авторов Остапу Бендеру). Ngay đến nội bộ Liên-minh Tác-gia Tô Liên cũng tranh cãi gay gắt về sự cấm hay không cấm ấn bản này. Sau cùng, ông chủ tịch Liên-minh Maksim Gorky phải đứng ra can thiệp cho sách được san hành trọn vẹn. Bởi vậy, sang năm 1933 tiểu thuyết mới đi tới tập cuối cùng.

Tựu trung, tiểu thuyết Con bê vàng ra đời đã đáp ứng phần nào thị hiếu độc giả. Nhưng ở các thập niên sau, sách này chỉ được giới phê bình coi là ăn theo ảnh hưởng của cuốn đầu, vì trong thực tế cả thi pháp và doanh thu đều không đáng kể khi đặt cạnh Mười hai chiếc ghế.

Nội dung

Mười hai chiếc ghế

Tiểu thuyết chia làm ba phần. Nội dung đan nhiều từ lóng thời thượng khá khó hiểu đối với độc giả không rành văn hóa Tô Liên nói chung và miền Odesa nói riêng. Mùa hè bức sốt ở thị trấn N, một công chức sở hộ tịch là Ippolit Matveyevich Vorobyaninov bất giác được lời trối của bà nhạc - Madame Petukhova - rằng, hãy đi tìm mười hai chiếc ghế mà năm xưa bà giấu đầy kim cương (ám chỉ thời rối ren 1917-21 nhiều quý tộc bị cách mạng quân cướp tài sản).

Thế nhưng, bí mật tày giời bị đức cha Fyodor Vostrikov lén nghe thủng. Hơn nữa, tuy là kẻ tham lam nhưng Ippolit hoàn toàn vô mưu, thế là y giao kèo với tên bợm Ostap Bender đi săn của báu, hứa hẹn nếu tìm được thì chia đôi.

Một thời gian sau, Ippolit Vorobyaninov chạm trán cha Fyodor ở bến sông. Trong lúc hai kẻ hám của giằng nhau, bí mật chuyến phiêu lưu có một không hai vỡ trận. Kể tự bấy, ba kẻ ở hai chiến tuyến ganh đua quyền sở hữu từng chiếc ghế một, từ sang trọng nhất tới... giời ơi đất hỡi nhất.

Cuộc phiêu lưu tìm ghế đã dẫn bọn thiêu thân này đặt chân tới mọi miền xa xôi hiểm trở nhất Tô Liên, tuy nhiên số phận những chiếc ghế gia bảo vẫn biệt vô âm tín.

Mãi tới mùa thu năm sau, Vorobyaninov và Bender theo dấu ghế về Moskva. Ostap Bender chuẩn bị kế hoạch đột nhập nhà văn hóa trung tâm của công nhân ngành thiết lộ, mà y cho là ghế hiện ở đó. Nhưng ban đêm, trong lúc Bender say ngủ, lão Ippolit Vorobyaninov cầm dao cạo cứa cổ y. Bender chết, nhưng Vorobyaninov cũng không độc chiếm được đống trang sức gia truyền.

Cách vài tháng trước, một thợ hồ đã phát hiện những chiếc ghế giấu kim cương, anh nộp lên tòa thị chính. Nhờ món hời này, thành phố đã xây cất hàng loạt cung văn hóa phục vụ nhân dân cần lao.

Con bê vàng

Tiểu thuyết Con bê vàng tuy cũng lại được chia thành ba phần, nhưng kết cấu không nhất quán được như Mười hai chiếc ghế. Tên bợm Ostap Bender may mắn thoát chết, nhưng từ nay y phải quấn khăn kín cổ để che cái thẹo dao lam. Lần này, Ostap Bender tới tòa thị chính định mạo xưng con duy nhất của trung úy Pyotr Shmidt (liệt sĩ cách mạng Sevastopol 1905, phu nhân là Zinaida Rizberg thuộc biên chế Liên-minh Tác-gia Tô Liên) để lĩnh khoản chẩn tuất thường niên của chính phủ. Thế nhưng ở đây cũng đang náo loạn vì có cả tá kẻ xưng "con một" đấng tiên liệt cách mạng.

Thế là Ostap Bender rủ bọn vô công rỗi việc kia lập băng Linh Dương cưỡi xe hơi tới thành phố Chernomorsk ("Hắc Hải", ám chỉ Odesa), vì theo lời tên bợm Shura Balaganov, ở đấy có một nhà triệu phú kín tiếng nên chưa bị "làm thịt". Tên ông ta là Aleksandr Ivanovich Koreyko, được dân du đãng gọi "Rockefeller phi pháp" (подпольный Рокфеллер), bởi nhờ cái mẽ công chức viên mẫn cán cần kiệm, y đã thụt két hàng chục triệu rúp bỏ vào nhiều nhà băng khác nhau hòng qua mặt nhà chức trách.

Bọn Linh Dương khởi động phi vụ bằng cách thâu thập tài liệu buộc tội Koreyko. Sau đó, đích thân Ostap Bender biên thư yêu cầu gã bỏ 10 triệu rúp ra chuộc tài liệu. Qua một hồi thương lượng, Ostap Bender bằng lòng nhận 1 triệu rúp. Nhóm đồng hành chia tiền rồi mỗi đứa một ngả.

Phần Ostap Bender ôm mớ tiền quá lớn so với thu nhập trung bình tại Tô Liên nên chẳng tiêu được vào việc gì. Y thất vọng và chợt nhận ra rằng, triệu phú sống không nổi tại Tô Liên. Vậy là y vượt biên sang România, nhưng rồi bị lính biên phòng nước này cướp sạch tài sản. Rốt cuộc, Ostap Bender quay về quê hương sống nốt đời lưu lãng không xu dính túi.

Phong hóa

Tiểu thuyết Mười hai chiếc ghế (Двенадцать стульев) đưa tên tuổi Ilf & Petrov ra công chúng toàn liên bang Soviet, tuy nhiên vì thành tựu quá lớn này mà về sau nhóm tác giả không thực hiện thêm được cuốn này xuất sắc hơn. Ngay cả phần kế tục Con bê vàng (Золотой телёнок) cũng không gây hiệu ứng dư luận đáng kể. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết này lại mở ra thời hoàng kim của văn nghệ tỉnh lẻ Odesa, tác phẩm cũng khai trương luôn dòng văn chương du đãng mang đặc sắc đất cảng Odesa này.

Tại Việt Nam, tiểu thuyết Mười hai chiếc ghế được dịch giả Lê Khánh Trường gửi in tại Nhà xuất bản Văn Nghệ TP HCM năm 1984 và tới nay vẫn là dịch phẩm Việt văn duy nhất. Ngoài ra, bản điện ảnh chuyển thể của đạo diễn Leonid Gayday rất nổi tiếng đối với thế hệ trưởng thành các thập niên 1980-90.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Mười hai chiếc ghế_** (, ) là một tiểu thuyết trào phúng cổ điển của nhóm tác giả Liên Xô Ilf và Petrov, được san hành vào năm 1928. Cốt truyện kể về các hành
thumb|upright=1.8|[[Phù điêu La Mã (thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên) mô tả một chuỗi các Kỳ công, đại diện từ trái sang phải Sư tử Nemean, Lernaean Hydra, Lợn Erymanthian, Hươu Ceryneian, Chim Stymphalian,
right|thumb|Một ghế đúc khối **Ghế đúc liền/ nguyên khối**, **ghế monobloc**, tên thông thường **ghế nhựa/ plastic**, là một loại ghế được làm bằng nhựa polypropylene nhẹ có thể xếp chồng lên nhau, thường có
nhỏ|Truyền thống Ba Lan bữa ăn _Wigilia_. Một **bữa ăn tối mười hai món đêm Giáng sinh** được chuẩn bị theo truyền thống để tưởng nhớ mười hai môn đệ của Chúa Giêsu ở các
**Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Fratercula arctica_**) là một loài chim biển trong họ Alcidae. Đây là loài hải âu cổ rụt bản địa duy nhất của Đại Tây
nhỏ| _[[Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa_, bản họa được biết đến nhiều nhất trong bộ tác phẩm.
(Tái bản thời Shōwa (1926–1989) bởi Adachi)]] là một loạt tranh in phong cảnh của nghệ sĩ ukiyo-e
**Convair B-36 "Peacemaker"** là một kiểu máy bay ném bom chiến lược được chế tạo bởi hãng Convair cho Không quân Hoa Kỳ. B-36 là máy bay gắn động cơ piston lớn nhất từng được
**Sukhoi Su-35** (trước đây có tên gọi là **Su-27M**) (tên ký hiệu của NATO **Flanker-E+**) là máy bay tiêm kích hạng nặng, tầm xa, đa năng, chiếm ưu thế trên không thế hệ 4 hiện
thumb|right|Con tàu _Beagle_ neo đậu tại [[Tierra del Fuego vào năm 1832; tác phẩm của phác họa gia Conrad Martens.]] **Hành trình thứ hai của tàu HMS _Beagle**_ (ngày 27 tháng 12 năm 1831 -
Chiếc **A-6 Intruder** là một kiểu máy bay cường kích hai động cơ, cánh gắn giữa do Grumman Aerospace chế tạo. Được đưa vào sử dụng từ năm 1963 đến năm 1997, chiếc Intruder được
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
**Hải chiến Tsushima** hay **Hải chiến Đối Mã** (tiếng Nhật: 日本海海戦, _Nihonkai-Kaisen_; âm Hán-Việt Nhật Bản hải hải chiến; tiếng Nga: Цусимское сражение, _Stusimkoye Srazhenie_) là một trận chiến trên biển trong Chiến tranh Nga-Nhật
**_Mười người da đen nhỏ_** ( tựa gốc tiếng Anh: **_Ten Little Niggers_**) hay **_Và rồi chẳng còn ai_** ( tiếng Anh: **_And Then There Were None_** ) là một tiểu thuyết hình sự của
Trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần **Hestia** (tiếng Hy Lạp: Ἑστία) là một trong mười hai vị thần trên đỉnh Olympus. Hestia là con của hai vị thần Rhea và Cronus. Bà thuộc dòng
thumb|Hình 1. Hải mã trong não người|260x260px **Hồi hải mã** (hay **hải mã**, **cấu tạo hải mã**, ; , bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại **_ἱππόκαμπος_**, nghĩa là con cá ngựa) là thành
**Trường Trung học phổ thông A Hải Hậu** là một trường trung học phổ thông tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Tiền thân của trường là Trường cấp 3 Hải Hậu được
**Valentin Petrovich Kataev** (còn viết là Katayev hoặc Kataiev; ; – 12 tháng 4 năm 1986) là một tiểu thuyết gia và nhà soạn kịch Nga và Liên Xô. Tác phẩm của ông thể hiện
**Leonid Iovich Gaidai** (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1923 - 19 tháng 11 năm 1993) ## Sự nghiệp Leonid Gaidai sinh năm 1923 tại thành phố Svobodny, Amur Oblast. Cha ông - Lov Isidorovich
**Mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo** (tiếng Anh: **Apollo command and service module**, viết ngắn gọn là **Apollo CSM**) là một trong hai thành phần chính cấu tạo nên tàu vũ trụ Apollo của
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**USS _Taylor_ (DD-468/DDE-468)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Beale_ (DD-471/DDE-471)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Theodore E. Chandler_ (DD-717)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Ammen_ (DD-527)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
là một bộ phim điện ảnh Nhật Bản thuộc thể loại chính kịch ra mắt vào năm 2008 do Takita Yōjirō làm đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên chính
**USS _Kitty Hawk_ (CVA-63/CV-63)** là một siêu hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc đầu tiên trong số bốn chiếc của lớp tàu sân bay mang tên nó nhập biên
**USS _San Francisco_ (CA-38)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố San Francisco thuộc
**HMS _New Zealand**_ là một trong số ba chiếc tàu chiến-tuần dương lớp _Indefatigable_ được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo để bảo vệ các lãnh thổ của Đế quốc Anh. Được hạ
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**Boeing 777** là một dòng máy bay hai động cơ thân rộng của Hoa Kỳ được Công ty Commercial Airplanes Division thuộc hãng Boeing chế tạo. Máy bay này có thế chở từ 301 đến
**USS _Southard_ (DD-207/DMS-10)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai được cải biến
**USS _Bryant_ (DD-665)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Allen M. Sumner_ (DD-692)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu
**USS _Sterett_ (DD-407)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**USS _Arkansas_ (BB-33)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Wyoming_ vốn bao gồm hai chiếc. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _William B. Preston_ (DD-344/AVP-20/AVD-7)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**Boeing 787 Dreamliner** (hay Boeing Y2) là một loại máy bay hai động cơ phản lực, thân rộng, hiện đang được chế tạo bởi hãng Boeing. Dòng máy bay này chính thức đi vào hoạt
**SMS _Scharnhorst**_ là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức, được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg, Đức. _Scharnhorst_ là chiếc dẫn đầu cho
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**USS _Laffey_ (DD-724)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
**USS _Alfred A. Cunningham_ (DD-752)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
Trung tá Không quân Jimmy Doolittle (thứ hai từ bên trái) và đội bay của ông chụp ảnh trước một chiếc B-25 trên sàn đáp tàu sân bay USS _Hornet_ Cuộc **Không kích Doolittle** vào
**USS _Stanly_ (DD-478)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Waldron_ (DD-699)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**USS _Manley_ (DD-940)** là một tàu khu trục lớp _Forrest Sherman_ từng hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**Hatshepsut** hay **Hatchepsut** (), (khoảng 1508-1458 TCN) là con gái của pharaon Thutmosis I đồng thời vừa là chị cùng cha khác mẹ vừa là vợ của pharaon Thutmosis II, trị vì Ai Cập trong
**USS _Walke_ (DD-723)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Missouri_ (BB-63)** (tên lóng "**Mighty Mo**" hay "**Big Mo**") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang