✨Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2022
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2022 là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2022, chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 12, chủ yếu là các cơn bão hình thành trong phạm vi của Thái Bình Dương ở Bắc Bán Cầu và từ kinh tuyến 100 đến 180 độ. Bão nhiệt đới hình thành trên toàn Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được đặt tên bởi Cục Khí tượng Nhật Bản JMA. Áp thấp nhiệt đới được Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp JTWC theo dõi sẽ có thêm hậu tố "W" phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc di chuyển vào khu vực mà Philippines theo dõi cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PAGASA). Đó là lý do đôi khi vì sao một cơn bão lại có hai tên gọi khác nhau.
Dòng thời gian
Tóm tắt các cơn bão
Thang bão Nhật Bản (JMA)
from:01/03/2022 till:31/03/2022 text:Tháng 3 from:01/04/2022 till:30/04/2022 text:Tháng 4 from:01/05/2022 till:31/05/2022 text:Tháng 5 from:01/06/2022 till:30/06/2022 text:Tháng 6 from:01/07/2022 till:31/07/2022 text:Tháng 7 from:01/08/2022 till:31/08/2022 text:Tháng 8 from:01/09/2022 till:30/09/2022 text:Tháng 9 from:01/10/2022 till:31/10/2022 text:Tháng 10 from:01/11/2022 till:30/11/2022 text:Tháng 11 from:01/12/2022 till:31/12/2022 text:Tháng 12
Thang bão Saffir-Simpson
from:01/03/2022 till:31/03/2022 text: Tháng 3 from:01/04/2022 till:30/04/2022 text: Tháng 4 from:01/05/2022 till:31/05/2022 text: Tháng 5 from:01/06/2022 till:30/06/2022 text: Tháng 6 from:01/07/2022 till:31/07/2022 text: Tháng 7 from:01/08/2022 till:31/08/2022 text: Tháng 8 from:01/09/2022 till:30/09/2022 text: Tháng 9 from:01/10/2022 till:31/10/2022 text: Tháng 10 from:01/11/2022 till:30/11/2022 text: Tháng 11 from:01/12/2022 till:31/12/2022 text: Tháng 12
Tóm tắt
Trên toàn khu vực
thumb|Bão Malakas đang mạnh lên ở phía đông [[Yap trong khi Bão Megi đang tiến gần Visayas và sau đó dừng lại ở vịnh Leyte, gây ra lũ lụt lớn và sạt lở đất ở miền trung Philippines.]] Hai tháng đầu năm 2022 tương đối yên tĩnh trên toàn khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Vào tuần cuối cùng của tháng 3, một áp thấp nhiệt đới hình thành ở phía tây Palawan và hướng đến Việt Nam, và gán số hiệu 01W từ JTWC, nhưng hệ thống này không kéo dài và tan vào ngày hôm sau. Vào đầu tháng 4, 2 vùng nhiễu động ở phía Đông Philippines đã hình thành nên áp thấp nhiệt đới 02W và 03W. Không lâu sau 02W mạnh lên thành bão Malakas, trở thành cơn bão đầu tiên của mùa bão. Nó cũng nhận được tên Basyang từ PAGASA, nhưng chỉ kéo dài 5 giờ bên trong khu vực trách nhiệm của Philippines. Trong khi 03W nhận được tên Agaton từ PAGASA và tấn công Guiuan lần đầu tiên ở phía đông Visayas trước khi di chuyển về phía tây và sau đó mạnh lên thành bão Megi. Megi đã mang lại lũ lụt và lở đất thảm khốc cho đất nước vì nó gần như đứng yên trong vịnh Leyte trước khi suy yếu dần. Megi sau đó tan vào ngày 13 tháng 4, Còn Malakas thì mạnh lên Cấp 4 trong Thang bão Saffir-Simpson. Megi sau đó tan vào ngày 13 tháng 4, khi Malakas phát triển thành bão cấp 4 tương đương. Malakas sau đó bắt đầu suy yếu nhanh chóng khi nó đi về phía Đông Bắc và trở thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới, và lưu vực này lặng đi trong phần còn lại của tháng 4. Không có cơn bão nào hình thành trong suốt tháng 5, với một áp thấp nhiệt đới nhỏ hình thành ở phía đông Mindanao vào ngày 30 tháng 5 và sau đó tan ngay trong ngày. phải|Bão Chaba đang tiếp tục mạnh lên ở biển Đông trong khi cơn bão Aere đang đi chuyển chậm về phía Bắc qua [[Biển Philippines.]] Gần cuối tháng 6, một áp thấp nhiệt đới hình thành ở phía tây Luzon, nó được PAGASA đặt tên là Caloy. Ngày 29 tháng 6, Caloy đi vào biển Đông và ngày hôm sau, Caloy mạnh lên thành bão và được JMA đặt tên là Chaba, đó cũng là cơn bão đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam trong năm 2022. Cùng thời gian đó, một vùng thấp xuất hiện ở phía Đông Bắc Luzon đã được JTWC đưa ra Cảnh báo về sự hình thành bão nhiệt đới và được PAGASA đặt tên là Domeng. Hệ thống cuối cùng đã mạnh lên thành một cơn bão nhiệt đới, JMA đặt tên cho hệ thống là Aere. Chaba tiếp tục mạnh lên cho đến khi nó đạt đến trạng thái Bão nhiệt đới dữ dội khi Aere di chuyển về phía cực và đe dọa quần đảo Ryukyu của Nhật Bản. Chaba đã trở thành bão cấp 1 và tấn công Mậu Danh, Trung Quốc, đồng thời đánh chìm một tàu cẩu đi qua Hồng Kông gần đó. Aere đi qua Naha, Nhật Bản và suy yếu thành áp thấp nhiệt đới.
Trên biển Đông và đất liền Việt Nam
Kể từ năm 2021, phân loại bão và áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam tại trang này cũng như các trang Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ thực hiện theo đúng quy định được đặt ra tại Quyết định số 18/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 22 tháng 4 năm 2021. Theo đó bão, ATNĐ ở nước ta gồm 05 cấp: Áp thấp nhiệt đới (cấp 6-7), Bão (bão thường, cấp 8-9), Bão mạnh (cấp 10-11), Bão rất mạnh (cấp 12-15), Siêu bão (từ cấp 16 trở lên); không có các từ "cuồng phong", "nhiệt đới" đi kèm đối với các cơn bão.
Danh sách các xoáy thuận nhiệt đới
Áp thấp nhiệt đới 01W
Cấp bão (Việt Nam): <Cấp 6 - Vùng áp thấp
Cấp bão (Nhật Bản): 25 kt - 1006 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 kt - Bão nhiệt đới
- JMA bắt đầu theo dõi một nhiễu động nhiệt đới ở khu vực quần đảo Trường Sa đã phát triển thành áp thấp nhiệt đới lúc 18:00 UTC ngày 29 tháng 3. Vào lúc 21:00 UTC cùng ngày, JTWC cũng đã ban hành Cảnh báo về sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới (TCFA) cho vùng áp thấp. Vào ngày hôm sau, cơ quan này đã ban hành cảnh báo đầu tiên về áp thấp nhiệt đới 01W và cũng là cảnh báo cuối cùng khi hệ thống nhanh chóng đổ bộ vào đất liền các tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa.
- Nước ta chỉ công nhận ATNĐ này là vùng áp thấp, không tính vào danh sách xoáy thuận trên biển Đông trong năm 2022. Tại miền Trung, mưa lũ do áp thấp đã khiến 2 người thiệt mạng, 1 người mất tích và 5 người bị thương. Mưa lũ cũng khiến 2 ngôi nhà bị sập, 47 nhà tốc mái và 229 thuyền ghe bị chìm.
Bão Malakas (Basyang)
Cấp bão Nhật Bản: 90 kt - 945 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 105 kt - 949 hPa - Bão cuồng phong cấp 3
Cấp bão Hàn Quốc: 43 m/s - Bão rất mạnh
Cấp bão Trung Quốc: 52 m/s - 940 hPa - Siêu bão
JTWC lần đầu tiên ghi nhận sự tồn tại của nhiễu động nhiệt đới vào ngày 3 tháng 4. Các điều kiện thuận lợi gần hệ thống đã giúp nó phát triển, với việc JMA công nhận hệ thống là một áp thấp nhiệt đới vào ngày 6 tháng 4. Sau đó trong ngày, JTWC đã cấp TCFA cho hệ thống. Ngày hôm sau, JTWC công nhận hệ thống này là một áp thấp nhiệt đới và gắn số hiệu 02W. Vào lúc 21:00 UTC, JTWC sau đó đã nâng cấp nó thành một cơn bão nhiệt đới. Vào ngày 8 tháng 4, hệ thống này phát triển thành một cơn bão nhiệt đới và được JMA đặt tên là Malakas. Malakas tiếp tục di chuyển qua Thái Bình Dương, và bắt đầu mạnh dần lên, trở thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng vào ngày 11 tháng 4, sau đó là một cơn bão vào ngày 12 tháng 4. Cùng lúc đó, nó đi vào Khu vực trách nhiệm của Philippines (PAR), tên địa phương là Basyang từ PAGASA lúc 03:00 UTC. Malakas sau đó nán lại một lúc ở biên giới của PAR trước khi cuối cùng rời đi 5 giờ sau đó, trong khi mạnh lên thành bão cấp 2 tương đương. Malakas sau đó tiếp tục mạnh lên, đạt trạng thái tương đương cấp 3 vào sáng ngày 13 tháng 4 và bão tương đương cấp 4 vào trưa ngày hôm đó, đạt cường độ cao nhất. Ngày hôm sau, Malakas suy yếu thành bão tương đương cấp 3 do cấu trúc mắt của nó bị suy giảm.. Ngày 14/4 bão tiếp tục suy yếu, JMA cập nhật rằng bão chuyển thành trạng thái ngoại nhiệt đới với cấu trúc bị xé ra, trở thành xoáy thuận front. Tên bão Malakas (nghĩa trong tiếng Philippines là "mạnh mẽ") đã bị khai tử mặc dù nó không gây ra tác động đáng kể nào. Lí do tên bão bị khai tử là từ này trong tiếng Hy Lạp là một từ lóng mang nghĩa tục tĩu là "thằng khốn". Văn phòng Khí tượng Anh (Met Office) đã có ý kiến về tên bão này từ năm 2016 nhưng lúc đó Ủy ban Bão không có phản hồi.
Bão Megi (Agaton)
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 75 km/h - Bão nhiệt đới mạnh
Bão Megi gây thiệt hại rất lớn cho khu vực Trung Nam Philippines với 220 người chết cùng hơn 100 người mất tích tính tới thời điểm hiện tại.
Bão Chaba (Caloy) - Bão số 1
Cấp bão Việt Nam: 70 kt (130 km/h) - Bão rất mạnh - 965 hPa.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của bão Mulan, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (Hải quân Hoa Kỳ) không công nhận xoáy thuận nhiệt đới, không cấp số hiệu, chỉ coi là một áp thấp gió mùa, dù đã ban hành TCFA (Cảnh báo về sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới).
Bão Meari
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 994 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 20 m/s - 998 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 20 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 19 m/s - Bão yếu
Một vùng áp thấp phát triển thành áp thấp nhiệt đới ở phía tây bắc Iwo Jima vào ngày 10 tháng 8.
Vào ngày 9 tháng 8, một vùng nhiễu động nhiệt đới đã được tạo ra ở vùng biển phía bắc-đông bắc của Đảo đá Pajaros và Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ đã đánh số hiệu nhiễu động là 90W. Vào lúc 9 giờ sáng ngày 10 tháng 8, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản đã nâng cấp nó thành áp thấp nhiệt đới với sức gió và đưa ra cảnh báo sẽ mạnh lên thành bão trong 24 giờ. Đến 3 giờ chiều ngày 11 tháng 8, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp đã nâng cấp nó thành áp thấp nhiệt đới và gán cho nó là áp thấp nhiệt đới 09W. Vào lúc 9 giờ tối, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp là cơ quan đầu tiên nâng cấp nó lên thành bão nhiệt đới.Đến 3 giờ sáng ngày 12 tháng 8, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản đã nâng cấp nó thành bão nhiệt đới, mang số hiệu quốc tế là 2208 và đặt tên là "Meari" và lúc 3 giờ sáng ngày hôm sau thì cho biết bão tăng cường độ lên 40 kt, có thể là do lực baronbilic. Vào lúc 3 giờ chiều ngày 13 tháng 8, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp đã hạ cấp nó thành áp thấp nhiệt đới dựa vào hình ảnh vệ tinh khi bão đã đổ bộ vào đất liền trong khi Cơ quan khí tượng Nhật Bản cho rằng bão vẫn giữ nguyên cường độ. Lúc 6:30 chiều, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản cho biết bão đổ bộ vào bán đảo Izu ở tỉnh Shizuoka, gây mất điện cho khoảng 10.000 hộ gia đình.Lượng mưa 110mm mưa đã được ghi nhận ở đảo Izu Oshima trong một giờ. Tỉnh Shizuoka ghi nhận lượng mưa hơn 300 mm trong 48 giờ. Vào lúc 3 giờ sáng ngày 14 tháng 8, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp đã đưa ra cảnh báo cuối cùng cho biết bão chuyển thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới sức gió tăng lên.Lúc 9 giờ tối, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản cho biết Meari đã biến đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới.
Bão Ma-on (Florita) - Bão số 3
Cấp bão Nhật Bản: 55 kt - 985 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 65 kt - Bão cấp 1
Cấp bão Việt Nam: 111 km/h - Cấp 11 - Bão mạnh - 985 hPa
Cấp bão Trung Quốc: 35 m/s - Cấp 12 - 970 hPa - Bão cuồng phong (đánh giá lúc đổ bộ vào Trung Quốc cấp 11; trước đó cho rằng là cấp 12)
Cấp bão Hồng Kông: 120 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 28 m/s - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hàn Quốc: 29 m/s - Bão trung bình
Cấp bão Philippines: 110 km/h (giật 185 km/h) - Bão nhiệt đới dữ dội
Do ảnh hưởng của hoàn lưu cơn bão tại Quảng Tây, có tổng cộng 150 trấn và hương thuộc 58 huyện, quận hoặc thành phố cấp huyện đã ghi nhận gió giật từ cấp 8 trở lên, 9 trấn và hương tại 3 huyện và quận thuộc Khâm Châu và Phòng Thành Cảng ghi nhận lượng mưa trên 250 mm. Tại trấn Na Thoa (Phòng Thành, Phòng Thành Cảng) ghi nhận gió giật mạnh 38,5 m/s (cấp 13) và tổng lượng mưa tích luỹ từ 20:00 ngày 24 đến 20:00 ngày 26 (giờ CST) do hoàn lưu cơn bão gây ra đạt 341,9 mm.
Do ảnh hưởng của bão số 3, đảo Bạch Long Vĩ có gió mạnh 19 m/s (cấp 8), giật 24 m/s (cấp 9), đảo Cô Tô có gió mạnh 16 m/s (cấp 7) giật 26 m/s (cấp 10), trạm khí tượng Quảnh Hà có gió mạnh 17 m/s (cấp 7) giật 26 m/s (cấp 10). Các nơi khác ở ven biển Quảng Ninh-Hải Phòng gió mạnh cấp 6-7 giật cấp 8-9. Cũng do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 sau suy yếu thành ATNĐ rồi thành vùng áp thấp trên khu vực vùng núi phía Bắc nên từ sáng ngày 25/8 đến ngày 26/8, ở Bắc Bộ có mưa to, có nơi mưa rất to và dông với lượng mưa phổ biến (tính từ 07h/25/8 đến 13h/26/8) từ 100-200mm, có nơi trên 220mm; riêng khu vực Quảng Ninh 150-300mm, có nơi trên 300mm. Một số nơi có lượng mưa lớn như: Cẩm Phả (Quảng Ninh) 441mm, Than Hòn Gai (Quảng Ninh) 385mm, Tiên Yên (Quảng Ninh) 395mm, Kỳ Lâm (Tuyên Quang) 255mm, Lương Nha (Phú Thọ) 241mm, Phù Liễn (Hải Phòng) 232mm, Hải Dương 222mm,...
Tên Hinnamnor bão đã bị khai tử vào năm 2023 do bão gây thiệt hại lớn cho Hàn Quốc.
Áp thấp nhiệt đới 13W (Gardo)
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 998 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 15 m/s - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 45 km/h - Áp thấp nhiệt đới Vào ngày 30 tháng 8 lúc 00:00 UTC, JMA bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới di chuyển về phía tây. Vài giờ sau, PAGASA đã đặt cho nó cái tên địa phương là Gardo do nó nằm trong khu vực trách nhiệm của họ. JTWC đã ban hành một TCFA cho hệ thống, và sau đó sẽ nâng cấp hệ thống thành áp thấp nhiệt đới, chỉ định nó là 13W. Do tương tác với cơn bão Hinnamnor, cấu trúc của 13W đã bị xé toạc. Vào ngày 1 tháng 9, JMA, JTWC và PAGASA đã đưa ra cảnh báo cuối cùng của họ về hệ thống khi nó được sáp nhập vào Hinnamnor.
Bão Muifa (Inday)
Cấp bão Nhật Bản: 85 kt - 950 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 110 kt - Bão cấp
Cấp bão Trung Quốc: 50 m/s (cấp 15) - 940 hPa - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Hồng Kông: 175 km/h - Bão cuồng phong dữ dội
Cấp bão Đài Loan: 43 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Philippines: 165 km/h - Bão cuồng phong
Bão Merbok
Cấp bão Nhật Bản: 70 kt - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 70 kt - Bão cấp 1
Cấp bão Trung Quốc: 38 m/s - 965 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 35 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 37 m/s - Bão mạnh
Vào 00:00 UTC ngày 9 tháng 9, JMA theo dõi một áp thấp nhiệt đới yếu đã phát triển ở phía tây Đảo Wake. JMA đã hạ cấp hệ thống xuống vùng áp thấp sau đó. Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, JMA lại nâng cấp lại hệ thống thành áp thấp nhiệt đới. JTWC bắt đầu đưa ra các lời khuyên, chỉ định nó là 15W. Trong bản tin thứ năm của mình, JTWC tuyên bố rằng 15W đã trở thành một "cơn bão nhiệt đới" khi nó đạt vận tốc 65 km / h (40 dặm / giờ; 35 kn) với sức gió duy trì trong một phút. JMA đặt tên cho nó là Merbok, vì đã đạt được sức gió duy trì trong 10 phút ở tốc độ 65 km / h (40 dặm / giờ). Theo bản tin của JMA, vài giờ sau, cơn bão đạt tới trạng thái của một "cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng". Trong bản tin thứ mười ba, JTWC báo cáo rằng Merbok đã trở thành bão cấp 1 khi đạt sức gió duy trì 120 km / h (75 dặm / giờ; 65 kn). JTWC đã đưa ra bản tin cuối cùng về Merbok, lưu ý rằng nó đã di chuyển khỏi các khu vực có thể sinh sống. Sau khi trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới, hệ thống này tiếp tục di chuyển về phía bắc nhìn chung với gió giật và áp suất khí quyển trung tâm đạt 937 mbar (27,67 inHg) khi nó tiến đến quần đảo Aleutian vào ngày 16–17 tháng 9. Sau đó, nó tiến vào biển Bering, tạo ra một đợt triều cường nguy hiểm làm ngập lụt một số ngôi làng và thị trấn ven biển. Mặc dù có lũ lụt ven biển trên diện rộng, không có trường hợp nào bị thương.
Bão Nanmadol (Josie)
Cấp bão Nhật Bản: 105 kt - 910 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 135 kt - Siêu bão cấp 4
Cấp bão Trung Quốc: 62 m/s - 915 hPa - Siêu bão
Cấp bão Hồng Kông: 220 km/h - Siêu bão
Cấp bão Đài Loan: 53 m/s - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 53 m/s - Bão rất mạnh
Vào 06:00 UTC ngày 9 tháng 9, JMA bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới yếu ở phía đông Iwo To, Nhật Bản. JMA đã nâng cấp lại hệ thống này thành áp thấp nhiệt đới hai ngày sau đó. Vào ngày 12 tháng 9, JTWC chỉ định hệ thống 16W và nó đang ở vị trí cách Iwo-To khoảng 262 nmi (485 km; 302 mi) về phía tây nam. Trong bản tin thứ năm, JTWC báo cáo rằng 16W đã mạnh lên thành một "cơn bão nhiệt đới", và sau đó JMA gọi là Nanmadol. Theo bản tin thứ mười hai của JTWC, cơn bão đã đạt đến trạng thái bão cuồng phong. Nhanh chóng, Nanmadol đạt cấp 3 và trở thành một cơn bão rất mạnh, theo bản tin thứ mười ba của JTWC. Nanmadol sau đó đã tiến vào Khu vực trách nhiệm Philippines của PAGASA lúc 09:40 UTC vào ngày 16 tháng 9 và được đặt tên là Josie, tuy nhiên, nó nhanh chóng rời khỏi PAR, chỉ hơn bốn giờ sau đó, lúc 14:00 UTC trong cùng một ngày. Trong PAR của PAGASA, Josie đã trở thành siêu bão cấp 5 theo JTWC, và PAGASA cũng nâng cấp Josie lên cấp siêu bão, siêu bão thứ hai trong năm 2022 kể từ cơn bão Hinnamnor (Henry). Áp suất siêu bão là 910 hPa (mbar) sau đó đã được ghi nhận, mức thấp nhất cho đến nay trong mùa bão năm này. Khi đổ bộ vào miền nam Nhật Bản, cơn bão được hạ cấp xuống cấp 3 khi đến quần đảo Kyushu. Và khi nó ảnh hưởng trực tiếp đến quốc gia, nó lại bị hạ cấp xuống cấp 1. Trước khi cơn bão đổ bộ vào nước này, JMA đã đưa ra cảnh báo đặc biệt rằng Nanmadol có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng. Ít nhất 4 triệu người đã được khuyên rời khỏi nhà của họ và tìm nơi trú ẩn. Khi đang di chuyển đến phía đông bắc Nhật Bản, xoáy thuận đã bị JTWC hạ cấp thành bão nhiệt đới sau khi đổ bộ vào đất liền. JMA cũng đã và hạ cấp nó thành một cơn bão nhiệt đới nghiêm trọng. Mặc dù vậy, khi cơn bão vẫn hoành hành trong nước, lượng mưa đặc biệt lớn đã được ghi nhận gây ra lũ lụt trên đường phố, phá hủy các bức tường xây dựng và cột điện bị phá hủy. Ít nhất 2 người chết và 70 người khác bị thương. Hơn 200.000 người không có điện. Ở Hàn Quốc, gió và mưa do bão gây ra cũng gây ra nhiều bất tiện. Một người bị thương, hơn 700 người phải sơ tán khỏi nhà, một số địa điểm ở phía đông nam của đất nước không có điện, nhiều cây cối bị bật gốc. Trong bản tin thứ hai mươi chín, JTWC báo cáo rằng Nanmadol đang suy yếu khi di chuyển trên đất liền ở Nhật Bản và sẽ bị hạ cấp thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới. Bởi vì điều này, cơ quan đã phát hành bản tin cuối cùng về nó.
Bão Talas
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 1000 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - Bão nhiệt đới
Bão Noru (Karding) - Bão số 4
Cấp bão Việt Nam: 176 km/h - Cấp 15 - 940 hPa - Bão rất mạnh
Cấp bão Nhật Bản: 95 kt - 940 hPa - Bão cuồng phong rất mạnh - cường độ đỉnh cao nhất 85 kt - 950 hPa - Bão cuồng phong rất mạnh - cường độ đỉnh thứ hai. Cấp bão Hoa Kỳ: 145 kt - Siêu bão cuồng phong cấp 5 - cường độ đỉnh cao nhất 130 kt - Siêu bão cuồng phong cấp 4 - cường độ đỉnh thứ hai.
Cấp bão Trung Quốc:
- Đỉnh thứ nhất: 62 m/s - Cấp 17 - Siêu bão
- Đỉnh thứ hai: 52 m/s - Cấp 16 - Siêu bão (trước đó cho rằng là cấp 17)
Cấp bão Philippines: 195 km/h - Siêu bão cuồng phong
Noru hình thành từ một áp thấp nhiệt đới mạnh lên từ nhiễu động tại biển Philippines. Ngày 22 tháng 9, Noru mạnh lên thành bão nhiệt đới, được đặt tên khu vực PAGASA là Karding. Noru đã mạnh lên nhanh chóng chỉ trong chưa đầy 40 giờ khi tăng từ một cơn bão nhiệt đới thành một siêu bão cấp 5 khi tiến gần đất liền Philippines. Vào lúc 9 giờ ngày 25 tháng 9 mắt bão đã hình thành rất rõ rệt. 17 giờ theo giờ Việt Nam, bão đạt đỉnh với sức gió 10-phút 175 km/h và sức gió 1-phút là 260 km/h.
Vào rạng sáng ngày 26 tháng 9, bão Noru đã đi vào Biển Đông và trở thành cơn bão số 4 năm 2022. Khi vào Biển Đông bão suy yếu khi vừa ra khỏi đất liền Philippines, chỉ còn cấp 10-11 theo thang Beaufout (được chứng minh qua các phép đo tán xạ từ vệ tinh cho thấy gió mạnh nhất ở góc phần tư Đông Bắc là 57,18 kt trong 1 phút và số liệu quan trắc từ Philippines) , di chuyển chủ yếu theo hướng Tây, tốc độ 25–30 km/h. Ngày 27/9, khi tiến đến vùng biển quần đảo Hoàng Sa, bão mạnh lên cấp 14-15, giật cấp 17; sau đó khi tiến vào vùng biển từ Thừa Thiên - Huế đến Quảng Ngãi, bão suy yếu dần. 3h30 phút sáng 28 tháng 9, bão số 4 đổ bộ vào các tỉnh Đà Nẵng - Quảng Nam (tâm bão đi qua thành phố Hội An và thị xã Điện Bàn; khu vực trạm KTTV Hội An) với cường độ cấp 10-11, giật cấp 13; sau đó bão suy yếu nhanh thành áp thấp nhiệt đới khi sang khu vực Nam Lào.
Do ảnh hưởng của bão số 4, tại Cù Lao Chàm có gió mạnh cấp 11 (28,9 m/s), giật cấp 14 (43,3 m/s); Lý Sơn mạnh cấp 10 (26 m/s), giật cấp 12 (34 m/s). Trên đất liền khu vực Đà Nẵng-Quảng Nam có gió mạnh cấp 7-9, giật cấp 11-13; khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế, từ Quảng Ngãi đến Phú Yên, Kon Tum-Gia Lai có gió mạnh cấp 5-6, giật cấp 7- 8. Tuy nhiên các tác động trực tiếp của bão không như dự báo ban đầu, bão đã yếu đi từ 3-4 cấp khi tiếp cận đến bờ biển tỉnh Quảng Nam và khi đổ bộ chỉ còn mạnh cấp 10-11, giật cấp 13. Theo Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, dự báo của Việt Nam sát với thực tế hơn, cho rằng các cơ quan khí tượng quốc tế đã dự báo và đánh giá sức gió đổ bộ quá cao.
Mưa lũ sau bão tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh (Bắc miền Trung của Việt Nam) lại gây thiệt hại rất nghiêm trọng. Tính đến ngày 2/10, mưa lũ tại các tỉnh Bắc Trung Bộ làm 8 người chết, 41 nhà sập đổ; 174 nhà bị hư hỏng, tốc mái; 1.418 hộ phải di dời; 9.715 nhà bị ngập (Nghệ An 8.373, Hà Tĩnh 1.210, Thanh Hóa 132), 4.105 ha lúa; 10.387 ha hoa màu; 10.667 ha cây trồng khác bị thiệt hại; 1.832 con gia súc, 238.478 con gia cầm bị chết, cuốn trôi; 12.715 ha ao hồ bị thiệt hại; 12.181 m đê, kè, kênh mương, 44 đập loại nhỏ bị hư hỏng; 64 cầu tràn, cống bị hư hỏng; 1.749 m bờ sông bị sạt lở; sạt lở 123.213 m³ đất đá; 112 cầu, cống bị hư hỏng.
Bão Kulap
Cấp bão Nhật Bản: 60 kt - 970 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 75 kt - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Trung Quốc: 33 m/s (cấp 12) - 970 hPa - Bão cuồng phong Vào ngày 24 tháng 9, JTWC đã công bố báo cáo đầu tiên về một hệ thống áp suất thấp và vì nó đi vào vùng nước ấm hơn và sức cắt gió thấp nên cơ quan này đặt tên là Invest 96W. Ngày hôm sau, JMA phân loại hệ thống này là áp thấp nhiệt đới. Vài giờ sau, JTWC làm theo và gắn mác 19W. Ngày hôm sau, cơn bão mạnh lên và JTWC trong bản tin thứ hai đã xếp nó là bão nhiệt đới. JMA đã làm theo và gọi nó với tên Kulap. JMA nhanh chóng phân loại nó là bão nhiệt đới dữ dội nhưng JTWC đã và nâng cấp nó thành bão cấp 1. Khi đe dọa bờ biển Nhật Bản, cơn bão tiếp tục di chuyển cho đến khi nó giảm cấp thành bão nhiệt đới, theo bản tin do hai cơ quan này phát hành. Bằng cách di chuyển đến các khu vực mát mẻ hơn và không đe dọa bất kỳ khu vực có thể sinh sống nào, các cơ quan đã phát hành bản tin mới nhất trên Kulap thông báo rằng nó đã bị hạ cấp thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới.
Bão Roke (Luis)
Cấp bão Nhật Bản: 70 kt - 975 hPa - Bão cuồng phong
Cấp bão Hoa Kỳ: 90 kt - Bão cuồng phong cấp 2
Cấp bão Trung Quốc: 38 m/s (cấp 13) - 970 hPa - Bão cuồng phong Vào ngày 27 tháng 9, JMA đã bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới yếu hình thành trên Biển Philippines và được JTWC chỉ định là Invest 98W. Cơ quan này cho biết trong một bản tin của TCFA rằng vì nó ở vùng nước ấm hơn và độ cắt thấp nên có phạm vi để thâm canh rộng hơn. Dự đoán đã được xác nhận và vài giờ sau đó nó được xếp vào loại áp thấp nhiệt đới, được gọi là 20W. Ngày hôm sau, cơn bão đi vào khu vực chịu trách nhiệm của PAGASA và được gọi là Luis, nhưng nó không đe dọa trực tiếp Philippines và rời khỏi PAR vài giờ sau đó. Khi nó rời đi, cơn bão đã tăng thêm sức mạnh và đạt bão nhiệt đới theo bản tin thứ hai của JTWC. JMA đặt tên cho hệ thống là Roke.
Áp thấp nhiệt đới Maymay
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1002 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Áp thấp nhiệt đới 21W
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1002 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - Bão nhiệt đới
Bão Sonca - Bão số 5
Cấp bão Việt Nam: Cấp 8 (65 km/h) - Bão thường
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 998 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 35 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Trung Quốc: 18 m/s (Cấp 8) - 996 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Đài Loan: 18 m/s - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hồng Kông: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Macau: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hàn Quốc: 19 m/s - Bão nhiệt đới yếu
Ngày 12/10, một vùng áp thấp hình thành trên khu vực giữa biển Đông, sau đó một ngày vùng thấp này mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới. Sau đó, áp thấp nhiệt đới này mạnh dần lên cấp 7, giật cấp 9. Chiều 14/10, ATNĐ mạnh lên thành bão số 5 và có tên quốc tế là bão Sơn Ca. Tuy nhiên, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia chỉ ghi nhận bão số 5 trong vòng 6 tiếng đồng hồ (trong khi các cơ quan khác vẫn giữ cường độ bão) và đến tối cùng ngày, bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới. Rạng sáng ngày 15/10, áp thấp nhiệt đới suy yếu từ bão số 5 đã đi vào đất liền khu vực Quảng Nam-Quảng Ngãi (tâm ATNĐ đi qua thành phố Quảng Ngãi, khu vực Đài KTTV tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng 1h30 phút) với cường độ cấp 6-7 giật cấp 9, sau đó suy yếu nhanh thành một vùng áp thấp.
Do ảnh hưởng của bão số 5 kết hợp với KKL nên tại Cồn Cỏ có gió mạnh 19 m/s (cấp 8), giật 22 m/s (cấp 9); Lý Sơn mạnh 16,7 m/s (cấp 7), giật 22 m/s (cấp 9). Trên đất liền khu vực Quảng Trị-Quảng Ngãi có gió mạnh cấp 5-6, giật cấp 7. Vùng áp thấp vẫn đứng yên, từ từ suy yếu và có được nhiều đặc điểm nhiệt đới hơn trong ba ngày sau đó, và JTWC cuối cùng đã tuyên bố một áp thấp nhiệt đới vào sáng sớm ngày 18 tháng 10 khi hệ thống đã trở nên sâu hơn và nhỏ dần lại. Mặc dù JMA đã báo cáo một vùng áp thấp phi nhiệt đới có lực mạnh cùng một lúc, hệ thống này đã sớm được phân tích là một cơn bão nhiệt đới và được đặt tên là Haitang.
Áp thấp nhiệt đới 25W (Obet)
Cấp bão Việt Nam: Cấp 6 (50~55 km/h) - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Nhật Bản: 30 kt - 1006 hPa - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 30 kt - Áp thấp nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới
Bão Nalgae (Paeng) - Bão số 7
Cấp bão Việt Nam: Cấp 11 (111~114 km/h) - Bão mạnh
Cấp bão Nhật Bản: 60 kt - 975 hPa - Bão nhiệt đới dữ dội
Cấp bão Hoa Kỳ: 75 kt - Bão cuồng phong cấp 1
Cấp bão Trung Quốc: 33 m/s (Cấp 12) - Bão cuồng phong
Cấp bão Đài Loan: 30 m/s - Bão nhiệt đới mạnh
Cấp bão Hồng Kông: 110 km/h - Bão nhiệt đới nghiêm trọng
Cấp bão Macau: 120 km/h - Bão cuồng phong
Cấp bão Hàn Quốc: 32 m/s - Bão nhiệt đới mạnh
Cấp bão Thái Lan (gió 2 phút): 60 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 110 km/h - Bão nhiệt đới dữ dội
Các nhà chức trách Philippines đã ghi nhận 160 người chết vì bão nhiệt đới Nalgae 29 người mất tích và 75 người khác bị thương. Cơn bão trở thành cơn bão gây chết người nhiều thứ 2 sau cơn bão Megi hồi đầu năm cũng tại Philippine.
Bão Banyan (Queenie)
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 1002 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 65 km/h - Bão nhiệt đới
Bão Yamaneko
Cấp bão Nhật Bản: 35 kt - 1004 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 40 kt - Bão nhiệt đới
Bão Pakhar (Rosal)
Cấp bão Nhật Bản: 40 kt - 998 hPa - Bão nhiệt đới
Cấp bão Hoa Kỳ: 50 kt - Bão nhiệt đới
Cấp bão Philippines: 75 km/h - Bão nhiệt đới
Vào ngày 9 tháng 12, một áp thấp hình thành ở phía Đông Samar
Các xoáy thuận khác
trái|nhỏ|100x100px|JMA TD 04 Ngày 29 tháng 5, một áp thấp nhiệt đới hình thành trên biển Philippines và được đánh số hiệu JMA TD 04. Ngày hôm sau, áp thấp nhiệt đới này tan.nhỏ|100x100px|JMA TD 07 Ngày 22 tháng 7, JMA bắt đầu theo dõi một vùng áp thấp ngoài khơi phía nam Nhật Bản. Ngày hôm sau, JTWC cũng bắt đầu theo dõi hệ thống, hiện cách Iwo Jima, Nhật Bản 227 hải lý (261 dặm; 420 km) về phía nam-tây nam. Vào ngày 24 tháng 7, JMA đã nâng cấp hệ thống thành áp thấp nhiệt đới và đặt số hiệu là JMA TD 07, sang ngày 26 tháng 7, áp thấp nhiệt đới tan.trái|nhỏ|100x100px|JMA TD 13 Ngày 14 tháng 8, một áp thấp nhiệt đới yếu hình thành ngay phía tây Đường Ngày Quốc tế và được đánh số hiệu là JMA TD 13. Hệ thống chỉ tồn tại cho đến đầu ngày hôm sau.nhỏ|100x100px|JMA TD 16 Một áp thấp nhiệt đới hình thành ở viễn đông Nhật Bản vào ngày 22 tháng 8, và tan cùng ngày. Số hiệu là JMA TD 16.
Vào ngày 25 tháng 9, JMA bắt đầu theo dõi một áp thấp nhiệt đới yếu cách bờ biển Nhật Bản vài trăm dặm và đánh hiệu là JMA TD 25 và tan cùng ngày.
Thống kê mùa bão
Tổng quan mùa bão
Đây là bảng của tất cả các cơn bão đã hình thành trong mùa bão năm 2022 ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Nó bao gồm tên, ngày tháng, sức gió, áp suất, khu vực đổ bộ, thiệt hại và số người chết được biểu thị bằng chữ in đậm. Cái chết trong ngoặc đơn thường là bổ sung hoặc gián tiếp (một ví dụ về cái chết gián tiếp là một tai nạn giao thông), nhưng vẫn sẽ liên quan đến cơn bão đó. Thiệt hại và tử vong bao gồm tổng số người bị tai nạn, sóng hoặc lũ lụt... và tất cả các con số thiệt hại là vào năm 2022 được tính bằng USD (những sức gió dưới đây được tính bằng sức gió 10 phút của JMA):
|-
| 01W || || bgcolor=#| || bgcolor=#||| bgcolor=#||| Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên || Không nhiều || ||
|-
| Malakas (Basyang) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Quần đảo Caroline, Quần đảo Bonin || None || ||
|-
| Megi (Agaton) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines || || ||
|-
| JMA TD 04 || || bgcolor=#| || bgcolor=#|Không xác định || bgcolor=#||| Palau, Philippines || None || ||
|-
| Chaba (Caloy) - Bão số 1 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Nam Trung Quốc || || ||
|-
| Aere (Domeng)|| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines, Quần đảo Ryukyu || Không rõ || ||
|-
| JMA TD 07 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| Songda || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Nhật Bản, Hàn Quốc || Không có || Không có ||
|-
| Trases (Ester) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Quần đảo Ryukyu, Hàn Quốc || Không có || Không có ||
|-
| 08W || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| Mulan - Bão số 2 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Nam Trung Quốc, Bắc Bộ || || ||
|-
| Meari || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#|||Không có|| Không có || Không có ||
|-
| JMA TD 13 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| Ma-on (Florita) - Bão số 3 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines, Nam Trung Quốc, Bắc Bộ || || ||
|-
| Tokage || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| JMA TD 16 || || bgcolor=#| || bgcolor=#|Không xác định || bgcolor=#||| Palau, Philippines || Không có || Không có ||
|-
| Hinnamnor (Henry) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Quần đảo Ogasawara,Quần đảo Daitō, Bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản,Đài Loan. Philippines, Viễn Đông Nga || || ||
|-
| 13W (Gardo)|| || bgcolor=#| ||bgcolor=#| || bgcolor=#|||Không có || Không có|| Không có ||
|-
| Muifa (Inday) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines, Đài Loan, Quần đảo Yaeyama, Đông Trung Quốc || || ||
|-
| Merbok || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| Nanmadol (Josie) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Nhật Bản, Triều Tiên, Viễn Đông Nga || || ||
|-
| Talas || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Nhật Bản || Không có || ||
|-
| Noru (Karding) - Bão số 4 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Philippines, Lào, Thái Lan, Campuchia || || ||
|-
| Kulap || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| JMA TD 25 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| Roke (Luis) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Quần đảo Daitō || Không có || Không có ||
|-
| Maymay || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines || || ||
|-
| 21W || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có||
|-
| Sonca - Bão số 5 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ || || ||
|-
| Nesat (Neneng) - Bão số 6 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines, Đài Loan, Hoa Nam, Việt Nam, Campuchia, Lào || || Không có ||
|-
| Haitang || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| 25W (Obet) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không xác định || ||
|-
| Nalgae (Paeng) - Bão số 7 || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Philippines, Hồng Kông, Ma Cao, Hoa Nam || || ||
|-
| Banyan (Queenie) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Quần đảo Caroline || Không có || Không có ||
|-
| Yamaneko || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
| Pakhar (Rosal) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#||| Không có || Không có || Không có ||
|-
|-
;Chú ý – Quy ước các vùng để xác định vùng ảnh hưởng trực tiếp vùng đổ bộ của bão trên đất liền.
*Việt Nam: Bắc Bộ (Bao gồm cả Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ); Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa - Hà Tĩnh), Trung Trung Bộ (Quảng Bình - Quảng Ngãi), Nam Trung Bộ (Bình Định - Bình Thuận), Tây Nguyên, Nam Bộ (Bao gồm cả Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ). Các vùng này được xác định chung biệt, được gọi chung là Việt Nam. ** Trung Quốc: Nam Trung Quốc (Quảng Đông - Ma Cao); Đông Trung Quốc (Phúc Kiến, Thiên Tân và các tỉnh phụ cận); Đông Bắc Trung Quốc (Hắc Long Giang - Nội Mông). Các tỉnh còn lại (chủ yếu khu Tây Tạng, Tây Bắc Trung Quốc) ít hoặc hầu như không chịu ảnh hưởng của xoáy thuận nhiệt đới nên không nói đến. Nếu có 2 vùng trở lên thì gọi chung là Trung Quốc.
Tên bão
Tên quốc tế
Các xoáy thuận nhiệt đới được đặt tên theo danh sách bên dưới do Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực ở Tokyo, Nhật Bản, khi một xoáy thuận đạt đến cường độ bão nhiệt đới. Các tên gọi do các thành viên của ESCAP/WMO Typhoon Committee đề xuất. Mỗi nước trong số 14 nước và vùng lãnh thổ thành viên đưa ra 10 tên gọi, được sử dụng theo thứ tự ABC, bằng tên tiếng Anh của quốc gia đó. Ngoài ra có 4 tên mới gồm: Trases, Mulan, Hinnamnor và Yamaneko thay thế Sarika, Haima, Nock-ten và Hato. Sau đây là 28 tên gọi dự kiến được đặt tên cho các cơn bão trong năm 2022 (nếu sử dụng hết sẽ tiếp tục lấy các tên bão kế tiếp trong danh sách 140 tên bão của khu vực):
Sau mùa bão 2022, Ủy ban Bão đã thông báo rằng những cái tên Malakas , Megi , Ma-on , Hinnamnor , Noru và Nalgae sẽ bị xóa khỏi danh sách đặt tên và chúng sẽ không bao giờ được sử dụng lại để đặt tên cho một cơn bão khác. Tên thay thế sẽ được công bố vào năm 2024.
Số hiệu bão và áp thấp nhiệt đới tại Việt Nam
Tính đến 1/11/2022, trên biển Đông đã xuất hiện 9 xoáy thuận nhiệt đới được nước ta công nhận.
Ở Việt Nam một cơn bão (áp thấp nhiệt đới) được đặt số hiệu khi nó đi vào vùng thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương được xác định trên biển Đông phía Tây kinh tuyến 120 độ kinh Đông và phía bắc vĩ tuyến 5 độ vĩ Bắc. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm ví dụ: Bão số 1, bão số 2. Còn đối với ATNĐ, số hiệu đặt theo tháng trước, sau đó đến thứ tự trong tháng. VD áp thấp nhiệt đới tháng 10, áp thấp nhiệt đới 1 tháng 9,...
Dưới đây là các cơn bão/ATNĐ đã được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương đặt số hiệu trong năm 2022 (kèm theo là vùng đổ bộ): *Bão số 1 (Chaba)* - Đổ bộ vào miền Nam Trung Quốc Bão số 2 (Mulan) - Đổ bộ vào phía Bắc tỉnh Quảng Ninh Bão số 3 (Ma-on) - Đổ bộ vào phía Bắc tỉnh Quảng Ninh Bão số 4 (Noru) - Đổ bộ vào phía Bắc tỉnh Quảng Nam Bão số 5 (Sonca) - Đổ bộ vào tỉnh Quảng Ngãi Bão số 6 (Nesat)** - tan ở phía Nam Vịnh Bắc Bộ *Bão số 7 (Nalgae) - Đổ bộ vào miền Nam Trung Quốc
*Áp thấp nhiệt đới tháng 8* (08W) - Đổ bộ vào miền Nam Trung Quốc Áp thấp nhiệt đới tháng 10 (25W) - Tan ở Bắc Biển Đông. ;Chú ý*: Nếu bão ở trên biển Đông đang hoạt động mà chưa đến đất liền thì được coi như là Chưa đổ bộ, còn nếu bão vào đất liền thì được coi như là Đổ bộ vào tỉnh nào/Khu vực nào. Tỉnh ven biển đầu tiên mà tâm bão đi qua tại Việt Nam được tính là nơi đổ bộ chính thức của bão ở nước ta.