✨Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2002
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2002 là một mùa bão hoạt động mạnh, với một số lượng lớn xoáy thuận nhiệt đới tác động đến Nhật Bản và Trung Quốc. Trong tất cả các tháng đều có ít nhất một xoáy thuận nhiệt đới hoạt động, dù vậy hầu hết trong đó tập trung vào giai đoạn từ tháng 7 đến hết tháng 10. Tổng cộng có tất cả 37 áp thấp nhiệt đới chính thức hoặc không chính thức, 26 trong số chúng trở thành những cơn bão nhiệt đới, 15 đạt cấp độ bão cuồng phong, và 8 đạt cấp độ siêu bão.
Mùa bão bắt đầu sớm với cơn bão đầu tiên hình thành vào ngày 10 tháng 1 trên vùng biển phía Đông Philippines, bão Tapah. Hai tháng sau, bão Mitag trở thành siêu bão Tây Bắc Thái Bình Dương đầu tiên từng được ghi nhận trong tháng 3. Trong tháng 6, bão Chataan đã trút một lượng mưa lớn xuống khu vực Liên bang Micronesia, làm chết 48 người và trở thành thiên tai chết chóc nhất trong lịch sử tại Chuuk. Chataan sau đó đã gây tổn thất lớn tại Guam trước khi tấn công Nhật Bản. Trong tháng 8, bão Rusa đã trở thành cơn bão chết chóc nhất tại Hàn Quốc trong vòng 43 năm, với 238 người thiệt mạng cùng tổn thất là 4,2 tỉ USD. Sang tháng 10, Higos là cơn bão mạnh thứ ba tấn công Tokyo kể từ Thế Chiến thứ II. Cơn bão cuối cùng của mùa bão, Pongsona, là một trong những cơn bão gây tổn thất lớn nhất tại Guam từng được ghi nhận, với con số thiệt hại 700 triệu USD. Pongsona tan vào ngày 11 tháng 12.
Khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương là một phần của Thái Bình Dương, với vị trí nằm về phía Bắc xích đạo và phía Tây đường đổi ngày quốc tế. Các cơn bão hình thành trên khu vực phía Đông đường đổi ngày quốc tế và phía Bắc xích đạo thuộc về mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 2002. Bão nhiệt đới hình thành trên toàn Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được đặt tên bởi Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA). Áp thấp nhiệt đới được Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) theo dõi sẽ có thêm hậu tố "W" phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc di chuyển vào khu vực mà Philippines theo dõi cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PAGASA). Đó là lý do khiến cho nhiều trường hợp, một cơn bão có hai tên gọi khác nhau. Với những cơn bão có hai tên gọi dưới đây, tên do PAGASA đặt được để trong ngoặc.
Dự báo mùa bão
Trong năm 2002, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) ban hành những thông báo về xoáy thuận nhiệt đới trên khu vực nằm về phía Bắc xích đạo và trải dài từ đường đổi ngày quốc tế đến bán đảo Mã Lai; với vai trò là Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực chính thức được Tổ chức Khí tượng Thế giới chỉ định vào năm 1989. JMA đưa ra những dự báo và phân tích sáu tiếng một lần tính từ nửa đêm (00:00 theo giờ UTC) bằng việc sử dụng phương pháp dự báo thời tiết số (NWP) và một mô hình dự báo xoáy thuận nhiệt đới. Để ước tính vận tốc gió duy trì liên tục trong 10 phút và áp suất khí quyển tối thiểu của một xoáy thuận, họ sử dụng NWP và kỹ thuật Dvorak. JTWC với trụ sở tại Trân Châu Cảng, Hawaii cũng đưa ra những cảnh báo về các cơn bão trên khu vực này, và họ cung cấp các dự báo phục vụ cho Lực lượng Quân đội Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Cơ quan này đã di chuyển cơ sở sao lưu dữ liệu từ Yokosuka, Kanagawa, Nhật Bản sang Monterey, California trong năm 2002. Ngay trước năm 2002, đã có một số nhà khí tượng học rời JTWC, dù vậy những nhà khí tượng học mới đã tự khắc phục sự thiếu kinh nghiệm của họ bằng cách dựa trên sự đồng thuận từ những mô hình dự báo khác nhau. Đây cũng là năm mà JTWC bắt đầu thử nghiệm việc dự báo trước một khoảng thời gian là năm ngày.
Tóm lược
right|thumb|Bão Fengshen (trên) và bão Fung-Wong (dưới) đang trải qua [[hiệu ứng Fujiwhara.]]Nhiệt độ bề mặt đại dương là ấm hơn bình thường trong phần lớn thời gian của năm, và ấm nhất quanh khu vực có kinh độ 160ºĐ từ tháng 1 đến tháng 7, và trong tháng 11. Bên cạnh đó, đối lưu phát triển trên những khu vực xa về phía Đông hơn thường lệ, kết quả là rất nhiều cơn bão hình thành ở phía Đông kinh tuyến 150ºĐ. Trong năm 2002, vị trí hình thành có kinh độ trung bình 145,9ºĐ, xa nhất về phía Đông kể từ năm 1951. Điều này là một phần nguyên nhân dẫn tới hệ quả đáng chú ý: không có bất kỳ một cơn bão nhiệt đới nào đổ bộ vào Philippines lần đầu tiên từ năm 1951, theo như JMA. Có hai cơn bão di chuyển vào khu vực từ vùng Trung tâm Thái Bình Dương là Ele và Huko. Tổng cộng, có 26 cơn bão được đặt tên trong mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2002, hơi thấp hơn con số trung bình là 26,7 cơn. Tuy nhiên, số lượng bão cuồng phong là 15 cơn, lớn hơn một chút so với trung bình hàng năm. Lũ tồi tệ nhất xảy ra tại Luzon, nơi đã có 85 người thiệt mạng. Một loạt các cơn bão đã khiến các trụ sở và trường học phải đóng cửa trên diện rộng, nhiều tuyến đường thì bị hư hại; tổn thất mùa màng do lũ là 1,8 triệu USD (94,2 triệu peso [PHP]), đa phần là gạo và ngô. Tổng thiệt hại từ chuỗi các cơn bão ước tính khoảng 10,3 triệu USD (522 triệu PHP). Từ tháng 6 đến tháng 12, mưa lớn cũng đã tác động đến nhiều vùng của Trung Quốc, kết quả tạo ra lũ thảm khốc là nguyên nhân gây ra cái chết của hơn 1.500 người cùng tổn thất là 8,2 tỷ USD (68 tỉ yuan [¥]). Trong đó bão nhiệt đới Kammuri tấn công miền Nam Trung Quốc gây mưa lớn trên diện rộng làm hư hại hoặc phá hủy 245.000 ngôi nhà. Đã có 153 trường hợp thiệt mạng liên quan tới cơn bão, chủ yếu là tại tỉnh Hồ Nam, cùng thiệt hại vật chất 322 triệu USD (2.665 tỉ yuan). Kể từ sau tháng 9, bão hình thành và hoạt động chủ yếu trên những khu vực xa hơn về phía Đông, với bão Higos tấn công Nhật Bản trong tháng 10 và bão Pongsona tấn công Guam trong tháng 12. Đến ngày mùng 10, JMA phân loại hệ thống là một áp thấp nhiệt đới, Tại Yap, gió mạnh và mưa lớn từ cơn bão đã làm mất điện trên toàn hòn đảo và phá hủy hàng trăm ngôi nhà. Mitag đã gây tổn thất mùa màng nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng khan hiếm lương thực. Bên cạnh đó mưa cùng nước biển dâng còn làm ngập lụt hầu khắp vùng ven biển cũng như thủ phủ Colonia. Tổng giá trị thiệt hại là 150 triệu USD, chủ yếu là tổn thất mùa màng, đi kèm với đó là một trường hợp thiệt mạng liên quan tới cơn bão.
Sau khi tác động đến Yap, Mitag chuyển hướng Tây Bắc rồi đến Bắc bởi một rãnh thấp đang dần tiếp cận. Di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc,
Bão Hagibis
Vào giữa tháng 5 một rãnh gió mùa đã sản sinh ra một vùng nhiễu động nhiệt đới trên khu vực gần quần đảo Caroline. với quỹ đạo bị chi phối bởi một áp cao. Trong ngày 16, Hagibis mạnh lên nhanh chóng và cho thấy dấu hiệu mắt bão đang hình thành. Đến ngày mùng 4, vùng nhiễu động đã phát triển thành một áp thấp nhiệt đới ngoài khơi phía Đông đảo Hải Nam, Mối đe dọa từ cơn bão đã thúc đẩy việc đóng của các trường học và hủy bỏ 20 chuyến bay từ các hãng hàng không. Noguri đã khiến một người bị thường, một ngôi nhà bị hư hại, và gây tổn thất nông nghiệp trị giá 4 triệu USD (504 triệu yên [JPY]).
Bão Rammasun (Florita)
Rammasun là cơn bão đầu tiên trong số bốn cơn bão cùng góp phần tạo ra mưa lớn và lũ lụt chết chóc ở Philippines trong tháng 7 năm 2002; với 85 trường hợp thiệt mạng liên quan Ở Trung Quốc thì ngược lại, mưa tiếp nối những điều kiện ẩm ướt từ trước làm lũ lụt gia tăng, dù vậy thiệt hại là thấp hơn dự kiến với con số 85 triệu USD tổn thất mùa màng và thủy sản tại tỉnh Chiết Giang.
Sau khi tác động đến Đài Loan và Trung Quốc, một rãnh thấp tiếp cận khiến cơn bão dần suy yếu và chuyển hướng Đông Bắc. Rammasun đã di chuyển qua phía trên hòn đảo Miyako-jima đồng thời gây gió mạnh tại Okinawa. và sóng cao đã làm 2 thủy thủ thiệt mạng. Sau khi suy yếu xuống còn bão nhiệt đới, Rammasun di chuyển qua gần phía Đông đảo Jejudo, Hàn Quốc, Tiếp theo cơn bão vượt qua Hàn Quốc, làm chết ba người khác và gây thiệt hại 9,5 triệu USD.
Bão Chataan (Gloria)
Bão Chataan hình thành vào ngày 28 tháng 6 trên khu vực gần Liên bang Micronesia (FSM). con số lớn hơn tổng lượng mưa trung bình hàng tháng. Mưa đã dẫn đến tình trạng ngập lụt, một số địa điểm ngập sâu tới 1,5 m, và tạo ra những trận lở đất làm 47 người thiệt mạng, con số đủ khiến Chataan trở thành thiên tai chết chóc nhất trong lịch sử tại hòn đảo này. Gần đó ở Pohnpei cũng có một người chết, và tổng giá trị tổn thất tại FSM là hơn 100 triệu USD.
Sau khi tác động đến Liên bang Micronesia, Chataan bắt đầu di chuyển ổn định theo hướng Tây Bắc. Vào ngày 4 tháng 7 mắt bão đi qua ngay sát phía Bắc Guam, và như vậy thành mắt bão đã di chuyển qua hòn đảo mang đến một lượng mưa rất lớn. Tổng lượng mưa cao nhất ghi nhận được là 536 mm tại vùng phía Nam Guam. Lũ lụt và lở đất từ cơn bão đã làm hư hại hoặc phá hủy 1.994 ngôi nhà. Tổng giá trị thiệt hại tại Guam là 60,5 triệu USD, kèm theo đó là 23 trường hợp bị thương. Bên cạnh đó cơn bão còn tác động đến đảo Rota thuộc quần đảo Bắc Mariana với gió giật mạnh và mưa nhỏ.
Bão Halong (Inday)
Rãnh gió mùa đã sản sinh ra một áp thấp nhiệt đới vào ngày 5 tháng 7 trên khu vực gần quần đảo Marshall, gần với vị trí hình thành ban đầu của bão Chataan.
Sau khi tác động đến Guam, Halong mạnh lên nhanh chóng thành một cơn bão cuồng phong và đạt đỉnh trong ngày 12 tháng 7. Tiếp theo cơn bão tấn công vùng Đông Nam Nhật Bản, mang đến gió mạnh và mưa lớn làm thiệt hại 89,8 triệu USD (10,3 tỉ yên), cùng với đó là một trường hợp thiệt mạng và 9 người bị thương. Vào ngày 16 tháng 7 Halong chuyển đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trước khi tan trong ngày hôm sau. Các chuyến bay trong khu vực đã bị hủy bỏ và một vài trường học và trụ sở cũng phải đóng của do bão, cùng với đó là hai trường hợp thiệt mạng. Mưa lớn cũng tác động đến vùng Đông Nam Trung Quốc, Ngoài ra mưa còn xảy ra ở Philippines
Bão Fengshen
Một áp thấp nhiệt đới hình thành từ rãnh gió mùa trong ngày 13 tháng 7 đã mạnh lên một cách nhanh chóng nhờ kích thước nhỏ gọn. Hai ngày sau, hệ thống đạt cấp độ bão cuồng phong và nó dần chuyển hướng sang Tây Bắc sau một thời gian đầu di chuyển theo hướng Bắc. Vào ngày 18 JMA nhận định vận tốc gió duy trì 10 phút đạt tối đa 185 km/giờ (115 dặm/giờ) cùng áp suất tối thiểu 920 mbar, giúp Fengshen trở thành cơn bão mạnh nhất của mùa bão. JTWC thì đánh giá vận tốc gió duy trì một phút tối đa 270 km/giờ (165 dặm/giờ) và ước tính Fengshen đã duy trì trạng thái siêu bão trong vòng 5 ngày,
Vào khoảng thời gian ở gần cường độ tối đa, bão Fengshen đã trải qua hiệu ứng Fujiwara với bão Fungwong, khiến cơn bão này thực hiện một vòng lặp trong quỹ đạo. Tại Nhật Bản, Fengsheng đã trút xuống những cơn mưa lớn tạo ra lở đất. Thiệt hại mùa màng là 4 triệu USD kèm với đó là một trường hợp thiệt mạng. Tổng cộng, áp thấp nhiệt đới đã khiến 14 người thiệt mạng và 2 người khác bị thương, cùng với 583 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy, và tổn thất vật chất vào khoảng 240.000 USD (12,1 triệu PHP), Mưa đã tạo ra hai trận lở đất làm trì hoãn hệ thống xe bus và tàu hỏa đồng thời khiến các chuyến bay và phà bị hủy bỏ. Ngoài ra cơn bão còn gây thiệt hại nhỏ đến mùa màng, cây trồng.
Bão Kalmaegi
Một vùng nhiễu động nhiệt đới đã phát triển trong ngày 17 tháng 7 trên vùng Trung tâm Thái Bình Dương, gần đường đổi ngày quốc tế. Ở Quảng Đông, đã có hai con đập bị lũ phá hủy và 10 người thiệt mạng bởi một trận lở đất. Lũ đã làm hư hại các tuyến đường bộ, đường ray, đường hầm, và dẫn tới tình trạng mất điện và nước trên toàn vùng. nhưng sâu hơn trong đất liền mưa xảy ra sau những tháng lũ lụt chết chóc. Tại tỉnh Hồ Nam, những tàn dư của Kammuri đã hợp nhất với một front lạnh phá hủy 12.400 ngôi nhà. Tính trên toàn Philippines, cơn bão đã làm 35 người chết và gây tổn thất 3,3 triệu USD, cùng với 13.178 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy. Đây là cơn bão cuối cùng được PAGASA đặt tên trong mùa bão này. Mưa lớn làm hư hại đường sá, tạo ra lở đất và gây thiệt hại đến ngành nuôi trồng thủy sản. Cơn bão đã khiến 22 chuyến phà và 10 chuyến bay bị hủy bỏ, cũng như làm một nhà máy lọc dầu gần Tokyo phải tạm thời đóng cửa. Ở hòn đảo ngoài khơi Hachijō-jima, gió mạnh đã gây nên tình trạng mất điện tạm thời.
Bão Vongfong (bão số 3)
Một áp thấp nhiệt đới hình thành ở Biển Đông vào ngày 15 tháng 8 từ tàn dư của 18W. Di chuyển theo hướng Tây Bắc, hệ thống đã mạnh lên thành bão nhiệt đới Vongfong trong ngày 18. Sau khi di chuyển sượt dọc theo vùng ven biển phía Đông đảo Hải Nam, Vongfong đổ bộ lên địa điểm gần Ngô Xuyên, Quảng Đông ngày hôm sau. Vongfong đã phá hủy 6.000 ngôi nhà, đa phần là tại Quảng Đông, và tổng giá trị thiệt hại ở Trung Quốc đạt ít nhất 86 triệu USD. Tại Nhật Bản, cơn bão trút xuống những cơn mưa xối xả với lượng cao nhất ghi nhận được là 902 mm ở tỉnh Tokushima.
Sau khi đã suy yếu đi một chút, Rusa đổ bộ vào Goheung, Hàn Quốc với sức gió 10 phút 140 km/giờ (85 dặm/giờ). Nó có thể duy trì được cường độ ổn định như vậy là nhờ không khí ấm và bất ổn từ một front lạnh gần đó. Cơn bão suy yếu khi di chuyển qua Hàn Quốc và gây mưa lớn với lượng tối đa 897,5 mm ở Gangneung. Tổng lượng mưa trong vòng 24 giờ tại thành phố này là 880 mm, phá vỡ kỷ lục lượng mưa trong ngày cao nhất tại Hàn Quốc; tuy nhiên mưa lớn nhất chỉ xảy ra cục bộ. Tại Hàn Quốc, Rusa làm chết ít nhất 233 người, trở thành cơn bão chết chóc nhất trong hơn 43 năm ở quốc gia này đồng thời gây thiệt hại lên tới 2,4 tỉ USD. Ngoài ra Rusa còn tàn phá một vùng diện tích trồng trọt rộng lớn tại quốc gia đang phải chịu những tác động từ nạn đói này. Vào ngày 1 tháng 9 Rusa chuyển đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trên vùng Viễn Đông Nga trước khi tan 3 ngày sau. Tổn thất trên đảo ước tính 14,3 triệu USD, trong đó bao gồm 3,6 triệu USD thiệt hại tại Căn cứ Không quân Kadena. Tuy nhiên cuối cùng thiệt hại ở đây là nhỏ, dù vậy cũng đã có hai người thiệt mạng. Ngoài ra, mưa lớn và gió mạnh đã làm ngập lụt 58.000 ngôi nhà và phá hủy một vùng diện tích trồng trọt rộng lớn. Con số thiệt hại tại Trung Quốc ước tính đạt 709 triệu USD,
Khi đã trở thành một cơn bão cuồng phong của khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, Do có một áp cao ở phía Bắc, hệ thống di chuyển về phía Tây
Bão Changmi
Vào ngày 15 tháng 9, một vùng mây dông nằm trong rãnh gió mùa trở nên hoạt động tăng cường trên khu vực gần Liên bang Micronesia. Bởi độ đứt gió ở mức trung bình, đối lưu của nó bị gián đoạn. Đến ngày 18, JTWC ban hành một Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới (TCFA), còn JMA thì phân loại hệ thống là một áp thấp nhiệt đới; tuy nhiên, hai cơ quan đã theo dõi những hoàn lưu khác nhau trong cùng một hệ thống. Sang ngày 19, hoàn lưu mà JMA theo dõi trở nên chiếm ưu thế. Không lâu sau, cơ quan này giáng cấp hệ thống xuống thành một vùng áp suất thấp do nó đã suy yếu. với 84 ngư dân được giải cứu. Trên toàn đảo Hải Nam, mưa lớn đã làm ngập lụt 2.500 ngôi nhà và gây tổn thất 80,5 triệu USD. Mưa to còn lan tới vùng Tây Nam Trung Quốc, đặc biệt là tại Quảng Tây. Ở thành phố Bắc Hải, cơn bão phá hủy 335 ngôi nhà, dẫn đến giá trị thiệt hại vật chất 22 triệu USD. Sau đó, Higos di chuyển qua Nhật Bản với gió giật đạt vận tốc 161 km/giờ (100 dặm/giờ) và nó đã thiết lập kỷ lục về vận tốc gió giật ở một vài địa điểm. Điện đến 608.130 ngôi nhà đã bị cắt Sóng cao đã đẩy 25 chiếc thuyền vào bờ và làm chết một người dọc đường bờ biển.
Bão Bavi
Vào đầu tháng 10 một vùng nhiễu động nhiệt đới trên khu vực gần Liên bang Micronesia (FSM) bắt đầu trở nên có tổ chức. Đối lưu dần củng cố quanh một hoàn lưu duy nhất, và đến ngày mùng 8 một áp thấp nhiệt đới đã hình thành. dựa vào đặc điểm mắt bão, dù cho sau đó độ đứt gió tăng lên đã làm nó suy yếu. Tiếp theo cơn bão đi xuyên qua phần yếu của áp cao, kết quả là nó chuyển hướng lên phía Bắc rồi đến Đông Bắc. trở thành một áp thấp nhiệt đới trong ngày 20. Pongsona hình thành vào ngày 2 tháng 12 mạnh lên thành bão nhiệt đới Pongsona vào ngày 3 tháng 12. Tại Guam, tổng cộng có 1.751 ngôi nhà bị phá hủy và 6.740 ngôi nhà khác bị hư hại ở nhiều mức độ khác nhau. Nước sinh hoạt đã bị mất tại nhiều vùng rộng lớn, còn hệ thống đường sá thì bị hư hại nặng. Ở hòn đảo Rota gần đó, Pongsona làm hư hại 460 ngôi nhà và phá hủy 114 căn, gây tổn thất 30 triệu USD. Cả Guam và quần đảo Bắc Mariana đều được tuyên bố là vùng thảm họa liên bang, điều này cho phép sử dụng ngân sách liên bang có sẵn để khắc phục hậu quả. Tại Guam, chính phủ đã cung cấp khoảng 125 triệu USD để tài trợ cho các cá nhân và một số chương trình khác.
Áp thấp nhiệt đới khác
Vào ngày 15 tháng 2, JMA nhận định có một áp thấp nhiệt đới yếu phát triển trên vùng biển phía Đông Mindanao. Hệ thống tan vào ngày hôm sau.
Vào đầu tháng 4, một vùng nhiễu động nhiệt đới đã hình thành dọc theo phần phía Nam của một front lạnh cố định tại địa điểm nằm về phía Tây rạn san hô vòng Enewatak. Đến ngày 5 tháng 4, JTWC bắt đầu đưa ra thông báo về áp thấp nhiệt đới 04W. Tiếp theo, một cơn bão ngoại nhiệt đới gần đó đã dẫn áp thấp nhiệt đới di chuyển theo hướng Tây Bắc, đồng thời khiến nó trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trên khu vực cách đảo Wake khoảng 650 km (405 dặm) về phía Tây - Tây Nam. và hệ thống chủ yếu chỉ bao gồm đối lưu ở phần Đông Nam với một hoàn lưu rộng. Thứ hai là một áp thấp nhiệt đới được JTWC chỉ định số hiệu 27W hình thành vào ngày 17 tại địa điểm cách Saipan khoảng 1.220 km (760 dặm) về phía Đông - Đông Bắc. Hệ thống này di chuyển về phía Tây do có một áp cao ở phía Bắc và đã không thể tăng cường thêm bởi dòng thổi ra yếu và không khí khô. 27W tan vào ngày 19. Là một Trung tâm Khí tượng Chuyên ngành Khu vực (RSMC), JMA có trách nhiệm chỉ định tên quốc tế cho các xoáy thuận nhiệt đới thay mặt Ủy ban Bão Tây Bắc Thái Bình Dương (Typhoon Committee) của Tổ chức Khí tượng Thế giới. Còn PAGASA sẽ chỉ định tên gọi cho tất cả các xoáy thuận nhiệt đới hình thành hoặc di chuyển trong phạm vi khu vực mà họ theo dõi, vị trí nằm giữa kinh tuyến 135°Đ và 115°Đ và giữa 5°B và 25°B, kể cả những xoáy thuận đã được đặt tên quốc tế. Trong bảng dưới đây, những tên được đánh dấu có nghĩa là chưa sử dụng.
Tên bão bị khai tử
Những cái tên Chataan, Rusa, và Pongsona đã bị khai tử sau mùa bão. Các tên được chọn để thay thế tương ứng là Matmo, Nuri, và Noul.
Số hiệu tại Việt Nam
Tại Việt Nam một cơn bão (đạt cường độ bão nhiệt đới trở lên) sẽ được đặt số hiệu khi nó đi vào khu vực thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam được xác định trên Biển Đông phía Tây kinh tuyến 120°Đ và phía Bắc vĩ tuyến 10°B. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm.
Dưới đây là các cơn bão được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam đặt số hiệu trong năm 2002:
Tác động mùa bão
Bảng dưới đây chỉ bao gồm những cơn bão được đặt tên, và tên do PAGASA đặt được để trong ngoặc đơn. Đối với các cơn bão di chuyển sang từ Trung tâm Thái Bình Dương, chỉ thống kê thông tin lúc chúng ở trên Tây Bắc Thái Bình Dương, và các cơn bão này được đánh dấu *.
|-
| Tapah || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Philippines || 0 || 0 ||
|-
| Mitag (Basyang) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Liên bang Micronesia, Palau || || ||
|-
| (Caloy) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Philippines || $2,4 triệu || ||
|-
| Hagibis || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Guam || || 0 ||
|-
| Noguri (Espada) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản, Đài Loan || || 0 ||
|-
| Rammasun (Florita) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Trung Quốc, Bán đảo Triều Tiên, Quần đảo Ryukyu, Đài Loan || || ||
|-
| Chaatan (Gloria) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Chuuk, Guam, Nhật Bản || || ||
|-
| Halong (Inday) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Guam, Philippines, Japan || $89,8 triệu || ||
|-
| Nakri (Hambalos) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Philippines, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản || N/A|| ||
|-
| Fengshen || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản, Trung Quốc || || ||
|-
| (Juan) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Philippines || || ||
|-
| Kalmaegi || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Fung-wong (Kaka) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản || 0 || 0 ||
|-
| Kammuri (Lagalag) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Trung Quốc || || ||
|-
| Vongfong (Milenyo) || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Philippines, Trung Quốc || $89,3 triệu || ||
|-
| Phanfone || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản || 0 || 0 ||
|-
| Rusa || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên || $4,2 tỷ || ||
|-
| Sinlaku || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản, Trung Quốc || || ||
|-
| Ele || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Hagupit || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Trung Quốc || $32,5 triệu || ||
|-
| Changmi || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Mekkhala || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Trung Quốc || || 0 ||
|-
| Higos || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Nhật Bản, Primorsky Krai || $2,14 tỷ || ||
|-
| Bavi || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Maysak || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Huko || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Haishen || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || || 0 || 0 ||
|-
| Pongsona || || bgcolor=#| || bgcolor=#| || bgcolor=#| || Guam, Quần đảo Bắc Mariana || || ||
|-