Mohammad Shah Qajar (sinh 5 tháng 1 năm 1808 - mất 5 tháng 9 năm 1848) là vị Shah (tức vua) thứ ba của triều Qajar xứ Ba Tư. Ông lên ngôi ngày 23 tháng 10 năm 1834 và trị quốc trong gần 14 năm thì ông mất, ông mất vào ngày 5 tháng 9 năm 1848 lúc mới 40 tuổi tại Tehran.
Trong thời kỳ của ông đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của giáo phái Bábism. Cũng vào thời kỳ của ông, Biểu tượng con Sư tử đực và ánh Mặt trời bình minh ở phía sau, cùng với các nền đỏ, trắng và xanh đã tạo thành một lá cờ của Ba Tư và triều Qajar thời đó.
Lên ngôi
Ban đầu, ông là con trai của Abbas Mirza, người đang là thái tử chờ nối ngôi của Fath Ali Shah Qajar. Nhưng năm 1833, Abbas Mirza đột nhiên qua đời, ngay khi cha ông mất thì ông nội ông Fath Ali Shah Qajar đã lập ông lên trở thành người kế vị tiếp theo. Một năm sau, ông ta qua đời, Mohammad đương nhiên là người được chọn nhưng ông đã bị một người chú của mình là Ali Mirza cướp ngôi. Nhưng sau đó, khi Ali Mirza ở ngôi nhưng không được công nhận trong suốt 40 ngày thì bị một giám thần trung cận của Mohammad là Mirza Abolghasem phế truất và Mohammad lên được ngai vàng.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mohammad Shah Qajar** (sinh 5 tháng 1 năm 1808 - mất 5 tháng 9 năm 1848) là vị Shah (tức vua) thứ ba của triều Qajar xứ Ba Tư. Ông lên ngôi ngày 23 tháng
**Fath Ali Shah Qajar** (5 tháng 9 năm 1772 - 23 tháng 10 năm 1834) là vị vua thứ hai của Nhà Qajar xứ Ba Tư Triều đại của ông kéo dài từ ngày 17
**Nasser al-Din Shah Qajar**, (16 tháng 6 năm 1831-1 tháng 5 năm 1896) là vị vua thứ tư của nhà Qajar của Ba Tư, trị vì từ 17 tháng 9 năm 1848 cho đến 1
**Agha Mohammad Khan Qajar** (; 1742–1797) là hoàng đế khai quốc của nhà Qajar ở Iran. Ông nắm cai trị từ năm 1789 tới năm 1797 với tư cách là "shah" (có thể dịch là
**Ahmad Shah Qajar** (tiếng Ba Tư: احمد شاه قاجار; 21 tháng 1 năm 1898 – 21 tháng 2 năm 1930) là Shah của Iran (Ba Tư) từ ngày 16 tháng 7 năm 1909 đến ngày
**Mohammad Ali Shah Qajar** (; 21 tháng 6 năm 1872 - 5 tháng 4 năm 1925, San Remo, Ý), là vị vua thứ sáu của triều đại Qajar và Shah of Ba Tư (Iran) từ
**Nhà Qajar:** (Tiếng Ba Tư: Selsele-ye Qajar سلسله قاجار) là một triều đại của Ba Tư tồn tại từ năm 1789 đến năm 1925 do Mohammad Khan Qajar kiến lập, triều đại này có nguồn
**Qajar Iran** (), còn được gọi là **Qajar Ba Tư**, **Đế quốc Qajar**, tên chính thức là **Nhà nước Vĩ đại Iran** ( **') và còn được gọi là Các miền bảo hộ Iran (
**Rezā Shāh**, cũng là **Rezā Shāh Pahlavi** (15 tháng 3 năm 1878 - 26 tháng 7 năm 1944), là shah của Iran từ năm 1925 đến năm 1941 và là người sáng lập ra triều
**Shah** (hay _"Sah"_) (/ ʃɑː /; Ba Tư: شاه, [ʃɒːh], _"vua"_) là danh hiệu dùng để chỉ, được trao cho các hoàng đế/vua và lãnh chúa của Iran (Ba Tư) trong thời kỳ quân chủ
**Hiệp ước Gulistan** (còn được viết là **Golestan**: tiếng Nga: Гюлистанский договор, chuyển tự Gyulistanskiy dogovor; tiếng Ba Tư: عهدنامه گلستان, chuyển tự Ahdnāme-ye Golestān) là một hiệp ước hòa bình được ký kết giữa
**Chiến tranh Ba Tư-Nga giai đoạn 1804 - 1813** là một loạt các cuộc chiến diễn ra giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Ba Tư vào trong giai đoạn từ năm 1804 đến 1813.
**Tehran** (phiên âm tiếng Việt: **Tê-hê-ran** hoặc **Tê-hê-răng**; _Tehrān_; ) là thủ đô của nước Cộng hoà Hồi giáo Iran, đồng thời là thủ phủ của tỉnh Tehran. Với dân số khoảng 8.4 triệu người
**Iran Pahlavi** () có tên gọi chính thức là **Nhà nước Hoàng gia Ba Tư** từ khi thành lập 1925 cho đến năm 1935 và **Nhà nước Hoàng gia Iran** từ năm 1935 đến năm
**Lịch sử của Azerbaijan** là lịch sử của người Azerbaijan và các khu vực liên quan đến lịch sử, dân tộc và địa lý của người Azerbaijan. Dưới sự cai trị của Media và Ba
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Cung điện Golestan** (tiếng Ba Tư: کاخ گلستان, phát âm là "Kakheh Golestan") còn được gọi là **Cung điện Gulistan** là tổ hợp hoàng gia của triều đại Qajar nằm tại thủ đô của Iran.
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
**Tỉnh Gilan** (tiếng Ba Tư: گيلان Gilan) là một trong những tỉnh của Iran. Tỉnh nằm dọc theo biển Caspi, ở phía tây của tỉnh Mazandaran, phía đông của tỉnh Ardabil, phía bắc các tỉnh
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Iran** ( **' ), quốc hiệu là **Cộng hòa Hồi giáo Iran** ( **' ), còn được gọi là **Ba Tư** (Persia), là một quốc gia tại khu vực Tây Á. Iran có biên giới
**Chiến tranh Afghanistan - Anh lần thứ nhất** là cuộc chiến giữa Công ty Đông Ấn Anh và Tiểu vương quốc Afghanistan từ năm 1839 đến 1842. Nó nổi tiếng với việc thảm sát 4.500
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Mohammad Karim Khan Zand**, (khoảng 1705 – 1779), cũng được gọi là **Karim Khan Đại đế (Bozorg)**, là một nhà lãnh đạo nắm quyền hành trên thực tế (de facto) của Ba Tư từ năm
**Vương miện Pahlavi** (tiếng Ba Tư: تاج پهلوی) là vương miện đăng quang được sử dụng trong triều đại Pahlavi (1925–1979) của Iran. Nó được chế tác để dành cho lễ đăng cơ của Quốc
**Sự kiện** **Anh và Liên Xô tấn xâm lược Iran** là một cuộc tấn công của phe Đồng Minh - bao gồm Hồng quân Liên Xô, quân đội Vương quốc Anh cùng các lực lượng
**Ghiyāth al-Dīn Abū al-Fatḥ ʿUmar ibn Ibrāhīm Nīsābūrī** (ngày 18 tháng 5 năm 1048 – ngày 4 tháng 12 năm 1131), thông thường được biết đến với tên gọi **Omar Khayyám** (),, là một nhà
**Vườn Eram** (, _Bāgh-e Eram_, có nghĩa là _Vườn của Thiên Đàng_) là một khu vườn Ba Tư, một di tích lịch sử nổi tiếng tại Shiraz, Iran. Nó thuộc về các nhà lãnh đạo
Cuộc **Diệt chủng Circassia** là một loạt các chiến dịch tấn công, trục xuất và đàn áp người Circassia từ mảnh đất quê hương Circasia vốn là dân đa số theo Hồi giáo trải dài