✨Miyamoto Musashi

Miyamoto Musashi

, cũng có tên Shinmen Takezō, Miyamoto Bennosuke hoặc pháp danh là một kiếm sĩ bậc thầy, nhà triết học võ thuật và là một rōnin người Nhật Bản. Musashi, như ông thường được biết đến, đã trở nên nổi tiếng thông qua những câu chuyện về kiếm pháp song kiếm hoàn hảo và độc đáo của ông, cũng như kỷ lục bất khả chiến bại trong 61 trận đấu (so với 33 trận của Itō Ittōsai). Ông là người sáng lập trường phái kiếm thuật Hyōhō Niten Ichi-ryū, hay Niten-ryū, và trong những năm cuối đời là tác giả của Ngũ Luân Thư và Độc Hành Đạo. Cả hai tài liệu đều được trao cho Terao Magonojō, môn sinh quan trọng nhất của Musashi, bảy ngày trước khi Musashi qua đời. Ngũ Luân Thư đề cập chủ yếu đến đặc điểm của phái Niten Ichi-ryū của mình theo ý nghĩa cụ thể, ví dụ như võ thuật thực hành của ông và ý nghĩa tổng quát của nó; Độc Hành Đạo, mặt khác, đề cập đến những ý tưởng đằng sau nó, cũng như triết lý cuộc sống của ông trong một vài câu châm ngôn ngắn.

Trung tâm đào tạo Musashi Budokan - trong một kiến trúc đáng chú ý - nằm ở Mimasaka, tỉnh Okayama, Nhật Bản đã được dựng lên để tôn vinh tên tuổi và huyền thoại của ông.

Tiểu sử

thumb|khi sung mãn nhất, đang cầm hai thanh [[bokken. Bản in mộc bản bởi Utagawa Kuniyoshi.]]

Chào đời

Chi tiết về những năm đầu đời của Miyamoto Musashi rất khó để xác minh. Bản thân Musashi chỉ phát biểu trong Ngũ luân thư rằng ông được sinh ra ở tỉnh Harima. Niten Ki (một cuốn tiểu sử sơ khai về Musashi) ủng hộ thuyết cho rằng Musashi sinh năm 1584: "[Ông] sinh ra ở Banshū, vào năm Tenshō thứ 12 [1584], năm Thân." Nhà sử học Kamiko Tadashi khi bình luận về văn bản của Musashi có ghi chú: "Munisai là cha của Musashi... ông sinh ra ở làng Miyamoto, ở huyện Yoshino [của tỉnh Mimasaka]. Musashi có lẽ đã được sinh ra ở đây." Tên thuở nhỏ của ông là .

Musashi ghi tên đầy đủ và tên hiệu của mình trong Ngũ luân thư là . Cha ông, là một võ sư tài hoa, tinh thông kiếm thuật và jutte (cũng jitte). Hirata được Lãnh chúa Shinmen tín nhiệm, và do đó đã được phép sử dụng tên gọi Shinmen. Với "Musashi", Musashi no Kami là một tước hiệu của triều đình, giúp ông trở thành thống đốc nhỏ của tỉnh Musashi. "Fujiwara" là dòng truyền thừa mà Musashi tuyên bố là hậu duệ.

Ngày sinh của Munisai và Musashi

Ngôi mộ của Munisai cho biết ông đã qua đời năm 1580, mâu thuẫn với năm sinh 1584 thường được chấp nhận của Musashi. Thêm vào đó, gia hệ của gia tộc Miyamoto còn sót lại lại ghi Musashi sinh năm 1582, khiến sự chính xác của năm sinh của ông bị rối loạn hơn nữa. Tokitsu Kenji đã gợi ý rằng năm sinh được chấp nhận 1584 của Musashi là sai, vì nó chủ yếu dựa vào việc đọc nghĩa đen của phần giới thiệu cuốn Ngũ luân thư, nơi Musashi phát biểu rằng số năm sống của ông đã "lên đến 60" (cho thấy mốc thời gian vào năm Tensho thứ 12, hoặc 1584, khi lần ngược trở lại từ ngày bắt đầu viết tài liệu), khi mà nó nên được hiểu theo một ý nghĩa mang tính văn chương và không chính xác hơn, chỉ ra không phải một thời đại cụ thể mà chỉ đơn giản là Musashi đã ở tuổi lục tuần khi ông viết cuốn sách.

Có một sự không chắc chắn đáng kể xung quanh Munisai, chẳng hạn như khi ông chết và liệu ông có thực sự là cha của Musashi, và thậm chí có rất ít điều được biết về mẹ của Musashi. Sau đây là một vài khả năng:

  • Thông tin trên ngôi mộ của Munisai là chính xác. Ông mất năm 1580, để lại hai con gái và con trai Iori; vợ ông đã nhận nuôi một đứa trẻ mới sinh, từ gia tộc Akamatsu, dự định kế vị Munisai ở môn phái jitte của ông. Omasa, goá phụ của Munisai, không phải mẹ ruột của Musashi.
  • Thông tin trên ngôi mộ là sai. Munisai đã sống lâu hơn, có lẽ tới sau năm 1590. Musashi, do đó, đã được sinh ra bởi người vợ đầu tiên của Munisai, Yoshiko (con gái của Bessho Shigeharu, người trước đây đã từng kiểm soát làng Hirafuku cho đến khi ông thua trong một trận chiến vào năm 1578 dưới tay Yamanaka Shikanosuke). Munisai bỏ Yoshiko sau khi sinh Musashi, bà sau đó trốn về nhà bố ruột, bỏ lại Musashi ở cùng Munisai. Musashi lớn lên và coi vợ thứ hai của Munisai, Omasa (con gái của Lãnh chúa Shinmen) như mẹ mình. Khả năng thứ hai này được trình bày trong phần dẫn nhập vào gia hệ của gia tộc Tasumi. Con gái của Bessho Shigeharu đầu tiên cưới Hirata Muni và bỏ ông vài năm sau đó. Sau đó, bà cưới Tasumi Masahisa. Người vợ thứ hai của Tasumi Masahisa là mẹ của Miyamoto Musashi. Tên thuở nhỏ của Musashi là Hirata Den. Trong suốt thời thơ ấu, ông đã tới Hirafuku để tìm mẹ thật của mình. Ông chuyển đến với gia tộc Tasumi.
  • Một biến thể của lý thuyết thứ hai này dựa trên thực tế là ngôi mộ ghi rằng Omasa đã sinh ra Musashi vào ngày 4 tháng 3 năm 1584 và chết sau khi sinh. Munisai sau đó tái hôn với Yoshiko. Họ đã bỏ nhau, như trong lý thuyết thứ hai, nhưng Yoshiko đã đưa Musashi, lúc đó mới 7 tuổi đi cùng cô và cưới Tasumi Masahisa.
  • Tokitsu Kenji ưa thích giả định năm sinh vào năm 1581, tránh được sự cần thiết phải giả định ngôi mộ là sai lầm (mặc dù điều này đặt ra vấn đề của những người mà từ đó Musashi đã tiếp nhận được những bộ môn võ thuật gia tộc).

Giáo dục

Bất kể sự thật về tổ tiên của Musashi là gì, khi Musashi được bảy tuổi, cậu bé đã được nuôi bởi chú của cậu, Dorinbo (hoặc Dorin), trong chùa Shoreian, cách Hirafuku 3 km (~1.8 mi.). Cả Dorin và Tasumi, bác bên họ mẹ của Musashi, đã dạy dỗ kinh điển Phật giáo và những kỹ năng cơ bản cho cậu như đọc và viết. Sự giáo dục này có lẽ là nền tảng của sự giáo dục tưởng tượng mà Yoshikawa Eiji đặt cho Musashi theo nhà sư Thiền tông trong lịch sử là Takuan. Ông rõ ràng đã được đào tạo bởi Munisai về kiếm thuật, và về bộ môn võ thuật jutte gia đình. Việc đào tạo này đã không kéo dài trong một thời gian dài, khi năm 1589, Munisai được phái bởi Shinmen Sokan tới hạ sát học trò của mình, Honiden Gekinosuke. Gia đình Honiden không hài lòng, và Munisai buộc phải di chuyển 4 km (~2.5 mi.) tới làng Kawakami.

Năm 1592, Munisai qua đời, mặc dù Tokitsu tin rằng người đã chết lúc này thực sự là Hirata Takehito.

Musashi mắc bệnh eczema trong thuở thiếu thời, và điều này ảnh hưởng bất lợi đến ngoại hình của ông. Một câu chuyện khác khẳng định rằng ông không bao giờ tắm vì không muốn bị bất ngờ khi không vũ trang. Trong khi lời xác nhận trước đó có thể có hoặc không có một số cơ sở trên thực tế, lời xác nhận sau có vẻ như không thể xảy ra. Một thành viên không tắm gội tham gia giai cấp chiến binh sẽ không được nhìn nhận như là một môn khách của những gia tộc như Honda, Ogasawara, và Hosokawa. Những chi tiết này và nhiều chi tiết khác có thể là những chi tiết trang trí đã được thêm vào huyền thoại của ông, hoặc những giải thích sai của văn học mà mô tả về ông.

Số phận người cha của ông là không chắc chắn, nhưng người ta nghĩ rằng ông đã chết trong tay một trong những kẻ thù sau này của Musashi, người đã bị trừng phạt hoặc thậm chí bị giết chết vì đã đối xử rất tệ với cha của Musashi. Tuy nhiên, không có chi tiết nào chính xác về cuộc đời của Musashi, vì những tác phẩm duy nhất của Musashi là về chiến thuật và kỹ thuật.

Rèn luyện kiếm thuật

thumb|Miyamoto Musashi được đọc cho biết số mạng của mình. Bản in bởi [[Utagawa Kuniyoshi]]

Cái tên "Musashi" được cho là được lấy từ tên của một tăng binh tên là Musashibō Benkei, người phục vụ dưới quyền Minamoto no Yoshitsune, nhưng điều này không được xác nhận.

Người ta nói rằng ông ta đã học tại môn phái Yoshioka-ryū, cũng được cho là nơi mà Musashi bị đơn thương độc mã đánh bại vào những năm cuối của mình, mặc dù điều này rất không chắc chắn. Ông đã được đào tạo chính thức hoặc từ cha mình cho đến khi được bảy tuổi, hoặc từ chú của mình bắt đầu từ lúc bảy tuổi. Cuối cùng, cái tên này được lấy từ các ký tự kanji gốc của ông, 武蔵, có thể đọc là Takezō hoặc Musashi, như đã nói trong cuốn Musashi của Yoshikawa Eiji.

Cuộc đấu đầu tiên

Theo lời giới thiệu của cuốn Ngũ luân thư, Musashi phát biểu rằng cuộc đấu tay đôi thành công đầu tiên của mình là ở tuổi 13, chống lại một samurai tên là Arima Kihei, người chiến đấu bằng cách sử dụng phong cách Kashima Shintō-ryū, được sáng lập bởi Tsukahara Bokuden (s. 1489, m. 1571). Nguồn gốc chính của cuộc đấu tay đôi này là Hyoho senshi denki ("Giai thoại về những bậc thầy đã qua đời"). Bản tường thuật tóm tắt có thể diễn tả như sau:

Du ngoạn và quyết đấu

Năm 1599, ba năm sau, Musashi rời làng, rõ ràng là ở tuổi 15 (dựa theo Tosakushi, "Sổ đăng kí cư trú vùng Sakushu", mặc dù Tanji Hokin Hikki nói rằng ông đã 16 tuổi vào năm 1599, đồng ý theo thời gian với số tuổi ghi lại vào cuộc đấu đầu tiên của Musashi).

Tháng thư hai năm 1641, Musashi đã viết một tác phẩm có tên Hyoho Sanju Go ("Ba mươi lăm hướng dẫn binh pháp") cho Hosokawa Tadatoshi; tác phẩm này đã chồng lấp và tạo nên nền tảng cho tác phẩm Ngũ luân thư sau này. Đây là năm mà con trai thứ ba của ông, Hirao Yoemon, trở thành binh pháp giả (cố vấn về chiến lược binh thư) cho thái ấp Owari. Năm 1642, Musashi chịu một loạt cơn đau dây thần kinh, báo trước cho sự đau ốm của mình trong tương lai. Năm 1643, ông cáo quan về hưu, ở tại một hang động tên là Reigandō như một ẩn sĩ để viết Ngũ luân thư. Ông đã hoàn thành vào tháng thứ hai năm 1645. Vào ngày thứ 12 của tháng thứ 5, cảm nhận được cái chết sắp xảy đến của mình, Musashi viết di chúc để lại gia tài trong thế gian của mình, sau khi đưa bản thảo cuốn Ngũ luân thư cho em trai của Terao Magonojo, đệ tử thân cận nhất của ông. Ông mất ở hang Reigandō vào khoảng ngày 13 tháng 6 năm 1645 (năm Shōhō thứ ba, ngày thứ 30 của tháng thứ tư). Hyoho senshi denki mô tả khoảnh khắc ông qua đời:

Miyamoto Musashi không bị giết trong chiến đấu, ông đã chết vì những gì được cho là ung thư ngực. Ông đã chết một cách yên bình sau khi hoàn thành văn bản Dokkōdō ("Độc hành đạo", "Con đường độc hành" hoặc "Con đường tự vệ"), gồm hai mươi mốt lời giáo huấn tự huấn luyện để hướng dẫn các thế hệ trong tương lai.

Thân thể của ông đã được chôn trong bộ giáp trong làng Yuge, gần con đường chính gần núi Iwato, đối diện với hướng mà các lãnh chúa Hosokawa sẽ đi tới Edo; bản thân tóc của ông cũng được chôn ở nũi Iwato (núi Iwato là một phần của dãy núi Kinpu ở Kumamoto và thật sự là nơi mà Musashi đã viết Ngũ luân thư trong hang Reigando. Mộ phần của ông không ở đây, mà cách khoảng 45 phút di chuyển về phía đông và ở mặt kia của Kumamoto, trong địa phận Musashizuka). Một số di vật của ông đã được trao cho Mimasaka, để ông có thể được chôn (một phần) với cha mẹ mình. Các ngôi mộ ở Mimasaka nằm trong khu vực Đền Musashi.

Chín năm sau, một nguồn chính về cuộc sống của ông — một bức tượng với một bài điếu ca tụng Musashi — được xây dựng tại Kokura bởi Miyamoto Iori; tượng đài này được gọi là Kokura hibun. Một tài liệu về cuộc đời của Musashi, Niten-ki (二天記), được xuất bản ở Kumamoto năm 1776, bởi Toyota Kagehide, dựa trên hồi ức của ông nội Toyota Masataka, người đã từng là một học trò đời thứ hai của Musashi.

Sự giảng dạy

Musashi đã tạo ra và cải tiến một kỹ thuật song kiếm kenjutsu gọi là hay hay 'Niten Ichi-ryū' (một sutra trong Phật giáo Kongen viện dẫn hai thiên đàng như hai vị thần canh giữ của Phật). Trong kỹ thuật này, kiếm sĩ sử dụng một thanh kiếm lớn, và một "thanh kiếm đồng hành" cùng lúc, chẳng hạn như katana cùng một thanh wakizashi.

Những chuyển động hai tay của những vị sư phụ trách việc đánh trống trong chùa có thể đã tạo cảm hứng cho ông, mặc dù có thể đó là kỹ thuật đã được rèn luyện qua kinh nghiệm chiến đấu của Musashi. Các kỹ thuật về jutte là do người cha dạy cho ông — jutte thường được sử dụng trong trận chiến kết hợp với kiếm; jutte sẽ đóng vai trò dự phòng và vô hiệu hoá vũ khí của kẻ thù, trong khi thanh kiếm sẽ ra đòn hoặc học viên sẽ vật nhau với kẻ thù. Phong cách kiếm thuật ngày nay của Musashi được gọi là Hyōhō Niten Ichi-ryū.

Musashi cũng là một chuyên gia trong việc ném vũ khí. Ông thường xuyên ném thanh đoản kiếm của mình, và Tokitsu Kenji tin rằng những phương thức của shuriken cho wakizashi là những kỹ thuật bí mật của Niten Ichi Ryu.

Musashi đã dành nhiều năm nghiên cứu Phật giáo và kiếm thuật. Ông là một nghệ sĩ, nhà điêu khắc và thư pháp tài hoa. Những ghi chép cũng cho thấy ông có các kĩ năng trong lĩnh vực kiến trúc. Ngoài ra, dường như ông có một cách tiếp cận chiến đấu khá đơn giản, không có thêm điệu bộ, kiểu cách hay chú ý về thẩm mỹ nào. Điều này có thể là do kinh nghiệm chiến đấu thực tế của ông; mặc dù trong những năm cuối đời, Musashi có theo đuổi một phong cách mang tính thẩm mỹ nhiều hơn. Ông đã vẽ các bức tranh bằng bút lông về Thiền tông, viết thư pháp, và điêu khắc gỗ cũng như kim loại. Thậm chí trong Ngũ luân thư, ông nhấn mạnh rằng samurai cũng nên hiểu về những ngành nghề khác. Nên hiểu rằng các bài viết của Musashi có ý nghĩa rất mơ hồ, và việc dịch chúng sang tiếng Anh làm cho chúng thậm chí còn khó hiểu hơn; đó là lý do tại sao có rất nhiều bản dịch khác nhau của Ngũ luân thư. Để có thêm thông tin chi tiết về các nguyên tắc sống và nhân cách của Musashi, ta có thể đọc các tác phẩm khác của ông, như DokkōdōHyoho Shiji ni Kajo.

Niên biểu

Dòng thời gian sau đây, theo trình tự thời gian (trong đó dựa trên thông tin chính xác nhất và được chấp nhận rộng rãi nhất), cho thấy các mốc thời gian trong cuộc đời của Miyamoto Musashi.

Tiểu thuyết hóa

Cuộc đời của Miyamoto Musashi được tái họa một cách hết sức sinh động trong tiểu thuyết 8 quyển, thuộc xu hướng văn học bình dân (heimin bungaku), mang tên Musashi của văn hào Yoshikawa Eiji.

Nghệ thuật

Miyamoto Musashi còn được biết đến là tác giả của cuốn sách bàn về kiếm đạo Gorin no sho (五輪書, Ngũ luân thư), và là một bậc thầy về nghệ thuật chạm khắc tượng gỗ cũng như hội họa thủy mặc.

Văn hóa đại chúng

Trong serie Kamen Rider Ghost, Musashi là một trong 15 linh hồn danh nhân hỗ trợ các Kamen Rider, trong đó Musashi mang số hiệu 01. Ngoài ra, cuốn tiểu thuyết và tấm bảo vệ tay của ông cũng xuất hiện.

Trong tựa game mobile Fate/Grand Order, Musashi có giới tính là nữ và mang trường phái Saber.

Trong tiểu thuyết The Young Samurai của nhà văn Chris Bradford, nhân vật Masamoto Tekeshi được dựa trên Miyamoto Musashi, người đã phát triển kỹ thuật Nhị Thiên.

Trong bộ truyện tranh Nhật (manga) Vagabond, Musashi là nhân vật chính và bộ manga này kể về cuộc đời của ông. Tác phẩm được chuyển thể từ tiểu thuyết hư cấu của Eiji Yoshikawa bởi mangaka Inoue Takehiko.

Mục liên quan

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, cũng có tên **Shinmen Takezō**, **Miyamoto Bennosuke** hoặc pháp danh là một kiếm sĩ bậc thầy, nhà triết học võ thuật và là một rōnin người Nhật Bản. Musashi, như ông thường được biết
vốn là một trường thiên tiểu thuyết được đăng tải trên báo Asahi của nhà văn Yoshikawa Eiji. Tác phẩm này được đăng liên tục từ ngày 23 tháng 8 năm 1935 đến ngày 11
**Miyamoto Musashi** (tựa đề Anh ngữ: Samurai I: Musashi Miyamoto) là tên của bộ phim Jidaigeki Nhật Bản năm 1954. Bộ phim do nam tài tử gạo cội Mifune Toshirō thủ diễn và nhận được
là một kiếm khách Nhật Bản sống vào thời Azuchi-Momoyama cho đến đầu thời Edo. Kiếm khách này không rõ năm sinh, mất vào ngày 13 tháng 4 năm Keichō thứ 17 (13-5-1612). Kojirō hiệu
hay **Lãng khách** là một tác phẩm Manga dành cho thanh niên (Seinen Manga) của họa sĩ Inoue Takehiko, dựa trên nguyên tác "Miyamoto Musashi" của văn hào Yoshikawa Eiji. Tác phẩm được đăng liên
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu _Khánh Trường_ thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh
**Yaiba** (cách điệu **_Y∀IBA_**) là tác phẩm của mangaka Aoyama Gōshō (tác giả của Thám tử lừng danh Conan), thuộc thể loại shōnen manga, được đăng trên tạp chí Shōnen Sunday của nhà xuất bản
**Amakusa 1637** (chữ Nhật: 天草时空旅人; AMAKUSA 1637?) còn được biết đến với tên tiếng Việt là **Anh thư nữ kiệt** là một bộ truyện tranh theo thể loại manga được sáng tác và vẽ bởi
là tên một tập binh pháp thư do kiếm khách Nhật Bản là Miyamoto Musashi biên soạn. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu của ông. Người ta cho rằng tác phẩm này được Musashi
**Haohmaru** (tiếng Nhật: Haohmaru 覇王丸; Haōmaru?: _Haoh_ - bá vương, _maru_ - hoàn, có nghĩa là _vòng tròn bá vương_) là một nhân vật hư cấu trong trò chơi điện tử Samurai Shodown (Thi hồn)
, là một tiểu thuyết gia người Nhật Bản. ## Lai lịch Hisaka Masashi xuất thân từ thành phố Niigata thuộc tỉnh Niigata, tốt nghiệp Đại học Waseda sau khi tốt nghiệp trường cấp 3
(hay còn được biết đến với tên gọi **_Yakuza_** đến năm 2022), là một dòng trò chơi điện tử đến từ Nhật Bản do Sega sáng tạo, sở hữu và phát hành. Loạt game _Yakuza_
**Oyama Masutatsu** (tiếng Nhật: 大山倍達, phiên âm Hán-Việt: Đại Sơn Bội Đạt, tên gốc tiếng Triều Tiên: 최영의; Hanja: 崔永宜, âm Hán Việt: Thôi Vĩnh Nghi, Choi Yeong-eui), tên thường gọi: Choi Bae-dal, Tiếng Triều
Right|thumb|_Jō_ của Nhật Bản, cao và có chu vi , được làm theo dáng một cây gậy ba toong lớn. Một thanh là một cây gậy bằng gỗ dài khoảng , được sử dụng trong
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
nhỏ|"Quy tắc của danh dự - Một trận đấu tay đôi tại The Bois De Boulogne, gần Paris, tranh khắc trên gỗ của Godefroy Durand tháng 1, 1875) **Đấu tay đôi** là một trận đấu
là 21 chương sách ghi chép lại phong cách sống của Shinmen Musashi (Miyamoto Musashi). Và ông gọi chúng là Tự Thề Thư. Ông đã truyền lại cuốn sách này cho đệ tử của mình
nhỏ|200x200px|Bản đồ hiển thị Khu vực Việc làm Thủ đô Kumamoto **Thành phố Kumamoto** (熊本市, _Kumamoto-shi_, _Hùng Bản thị_) là thành phố trung tâm hành chính của tỉnh Kumamoto, đồng thời là một thành phố
Tập tin:Japan film clapperboard.svg **Điện ảnh Nhật Bản** (tiếng Nhật: _映画_ - _Eiga, cũng được biết trong Nhật Bản là 邦画 hōga - "domestic cinema"_) hay **phim điện ảnh Nhật Bản** (tức **phim lẻ Nhật
nhỏ|phải|Một bức tranh in mộc bản của bậc thầy [[ukiyo-e Utagawa Kuniyoshi mô tả _rōnin_ nổi tiếng Miyamoto Musashi đang nhận lời chúc phúc.]] là những samurai không còn chủ tướng trong thời kì phong
, hay gọi ngắn gọn là **Yagyū Jūbei**, là một kiếm khách và Samurai nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản thời phong kiến và trong văn hóa Nhật Bản. Ông phục vụ liên tiếp
phải|nhỏ|Kusari-gama **Kusari-gama** hay **tỏa liêm** (鎖鎌) là một món vũ khí trong võ thuật Nhật Bản cổ và được phát triển từ nông cụ, một đầu là lưỡi hái để cắt cỏ được nối với
**Kyōhachi-ryū** (京八流, _Kinh Bát lưu_) là một phái kiếm trong truyền thuyết Nhật Bản và được xem như là thủy tổ của hết thảy tất cả các lưu phái kiếm thuật được truyền đến ngày
nhỏ|Trình diễn Unko-ryu **Kenjutsu (Kiếm thuật Nhật Bản)** là thuật ngữ tổng quát để chỉ những trường kiếm thuật truyền thống của Nhật Bản, cụ thể là những trường trước thời Minh Trị duy tân.
thumb|Một số loại _bokken_ Một (hoặc , như được gọi thay thế ở Nhật Bản) là một loại kiếm bằng gỗ của Nhật Bản sử dụng trong luyện tập. Nó thường có kích cỡ và
**_Yagyū Jūbei nanaban shōbu_** (tạm dịch: Yagyū Jūbei 7 phen thắng phụ) là một cuốn tiểu thuyết thời đại của nhà văn Tsumoto Yō, được Bungei Shunju (Văn nghệ xuân thu) xuất bản năm 2004.
phải|nhỏ| _Diều hâu_, bản in khắc gỗ **Utagawa Kuniyoshi** ( , Hán Việt: Ca Xuyên Quốc Phương; 1 tháng 1 năm 1798 – 14 tháng 4 năm 1861) là một trong những bậc thầy vĩ
là một kiếm hào, binh pháp gia Nhật Bản sống vào thời Chiến quốc. Ngoài phái kiếm Kashima Ko-ryū do tổ phụ ông truyền dạy, Bokuden còn theo học phái Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū, sau
## Nhận xét sơ bộ Chỉ có các nhà văn và nhà thơ Nhật Bản được đưa vào danh sách sau đây mà thôi. Thuật ngữ _nhà văn_, giống như thuật ngữ _văn học_, được
**Yasuo** **_Kẻ Bất Dung Thứ_**, hay **_The Unforgiven_** là một nhân vật con người hư cấu, giả tưởng, kiếm khách Rōnin tự do, không phe phái trong _Vũ trụ Liên Minh Huyền Thoại_, một vị
là một cuộc nổi dậy tại địa điểm nay thuộc tỉnh Nagasaki ở vùng Tây Nam Nhật Bản kéo dài từ ngày 17 tháng 12 năm 1637, đến ngày 15 tháng 4 năm 1638, trong
**Nitō-ryū** (二刀流, âm Hán Việt: nhị đao lưu) là danh từ tổng hợp để chỉ kỹ thuật dụng kiếm, tấn công và phòng thủ hợp nhất bằng cách vận dụng hai thanh kiếm trên hai
**Jidai-geki** (thời đại kịch) là một thể loại phim điện ảnh, phim truyền hình hay kịch nói với bối cảnh là các thời kỳ trước cuộc Duy Tân Meiji (Minh Trị), trước thời Edo hoặc
**Thời kỳ Chiến quốc** là thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản với nhiều chuyển biến xã hội lồng trong bối cảnh mưu mô chính trị và xung đột quân sự gần như là liên
**Ueshiba Morihei** (tiếng Nhật: 植芝盛平, phiên âm Hán-Việt: _Thực Chi Thịnh Bình_, 1883-1969) là người đã có công lãnh hội nhiều trường phái võ thuật của Nhật Bản để sáng lập ra hệ phái Aikido
Võ sĩ Nhật trong bộ giáp đi trận - do [[Felice Beato chụp (khoảng 1860)]] có hai nghĩa. Theo nghĩa thứ nhất, samurai là một bộ phận của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản, là
**Aragami** (荒神) là một bộ phim hành động có kinh phí thấp được sản xuất vào năm 2003 của đạo diễn Nhật Bản Kitamura Ryūhei. Bộ phim này là tác phẩm cạnh tranh của Kitamura
**Makai Tenshō** (魔界転生, Hán việt: ma giới chuyển sanh) là tên một cuốn tiểu thuyết truyền kỳ của văn hào Nhật Bản Yamada Fūtarō. Tác phẩm này được đăng tải dài kỳ trên báo Ōsaka
là một nam diễn viên người Nhật Bản xuất hiện trong hơn 150 phim điện ảnh. Ông nổi tiếng nhất nhờ 16 bộ phim hợp tác (1948–1965) với Kurosawa Akira trong những tác phẩm như
nhỏ|Jitte **Jitte** (十手, âm Hán Việt đọc là "thập thủ") là một món vũ khí trong các võ phái cổ Nhật Bản. Đây cũng là một trong những dụng cụ bắt bớ thông dụng thời
là tên một phim anime phát hành năm 2014, đạo diễn bởi Nishikubo Mizuho, đồng sản xuất bởi hãng Production I.G và Japan Association of Music Enterprises (JAME). ## Cốt truyện _Giovanni no Shima_ là
là phần tiếp theo của trò chơi điện tử _Sengoku Basara_ (mà bản tiếng Anh gọi là _Devil Kings_) thuộc thể loại chặt chém, hành động phiêu lưu lấy bối cảnh thời kỳ Chiến Quốc
thumb|Một thanh _suburito_ Một thanh là một loại _bokken_, một loại kiếm gỗ để luyện tập có xuất xứ từ Nhật Bản. ## Mô tả và sử dụng Suburitō có phần lưỡi kiếm dày hơn
là một trong những võ sư karate đầu tiên của đảo Okinawa. Năm sinh năm mất của ông có nhiều khác biệt tùy theo nguồn: 1809-1901 hoặc 1809–1896 hoặc 1800–1892. Ông là một chiến binh
là một sê-ri trò chơi điện tử thuộc thể loại đối kháng do hãng Genki phát triển. _Kengo_ được coi là người thừa kế tinh thần của dòng game _Bushido Blade_ trên hệ máy PlayStation.
**Cung** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam (Chữ Hán: 恭), Triều Tiên (Hangul: 궁; Romaja quốc ngữ: Gung), Nhật Bản (Kanji: 宮, Rōmaji: Miya) và
là một tạp chí về seinen manga của Houbunsha kể từ tháng 11 năm 1956. Nhà xuất bản cho rằng đây là tờ tạp chí về manga hàng tuần đầu tiên. phát hành vào mỗi
, được cách điệu thành **_SAMURAI CHAMPLOO_**, là một bộ anime Nhật Bản được phát triển bởi Manglobe. Đội ngũ sản xuất được chỉ đạo bởi đạo diễn Shinichirō Watanabe, thiết kế nhân vật Kazuto
là một trong những hệ phái karate lớn của Okinawa và là một trong những phong cách karate lâu đời nhất. Nó được đặt tên bởi Choshin Chibana vào năm 1933, nhưng bản thân hệ