Minh Phụng (tên khai sinh: Ngô Văn Thiệu, 16 tháng 9 năm 1944 – 29 tháng 11 năm 2008) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, thành danh từ trước năm 1975. Nhờ sở hữu giọng ca truyền cảm và nét đẹp lãng tử, nên ông được mệnh danh là "Hoàng tử sân khấu" của cải lương Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp
Minh Phụng tên thật là Ngô Văn Thiệu, còn tên thường gọi là Nguyễn Văn Hoài, sinh ngày 16 tháng 9 năm 1944 tại Mỹ Tho, xuất thân trong gia đinh nghèo, có 10 anh chị em. Trong đó ông là con thứ 5.
Trước năm 1975
Khi lên 7 tuổi, hàng ngày ông phải thức dậy từ 4 giờ sáng để phụ giúp mẹ bày hàng ra chợ Mỹ Tho để mẹ bán. Sau những giờ học buổi chiều, ông còn phải đi bán đậu rang, bánh chuối để kiếm thêm thu nhập. Những lúc đi bán bánh, mỗi khi gặp những cuộc đờn ca tài tử trong xóm tổ chức là ông ở lại nghe và đôi khi ông cũng tham gia ca vài bài.
Năm 1961, vì quá đam mê giọng ca của nghệ sĩ Minh Cảnh mà ông tự học hát cải lương qua radio, ѕau đó ông được nghệ nhân Tư Xuân ở Mỹ Tho dạу ca theo nhịp đờn.
Năm 1962, nhân dịp đoàn Tân Đô (của bầu Công Tạo) tập tuồng tại sân khấu đình Điều Hòa, ông được soạn giả Hương Huyền Anh thử giọng ca và giới thiệu để bầu Công Tạo thu nhận ông vô đoàn hát và đặt cho nghệ danh Tân Tiến. Vai diễn đầu tiên của ông là vai Nhà sư trong tuồng Bến tang thương.
Năm 1963, Tân Tiến gia nhập đoàn hát Thanh Phương. Tại đây, ông bỏ nghệ danh Tân Tiến, lấy tên hai đứa cháu của một người bạn là Minh và Phụng để đổi thành nghệ danh Minh Phụng. Ông đã thành công khi thủ vai kép chánh Ai Dũng Phương trong tuồng Bên cầu định mệnh.
Đầu năm 1964, Minh Phụng về hát cho đoàn Bạch Vân - Quốc Việt, nhờ sắc vóc đẹp trai, giọng ca truyền cảm, Minh Phụng được các ký giả kịch trường không tiếc lời khen ngợi. Thời gian này Minh Phụng hát cặp với nghệ sĩ Kiều Tiên (là người vợ của ông sau này). Ông yêu Kiều Tiên vì cô trẻ đẹp, thông minh và là đào chánh của đoàn hát. Tình yêu chỉ mới chớm nở thì Minh Phụng được ông Ba Bản (chủ gánh hát Thủ Đô) mời về cộng tác. Lúc này, ông từ giã Kiều Tiên, về đầu quân cho đoàn Thủ Đô. Giai đoạn này, Minh Phụng vẫn phải làm công việc của người cầm bổn nhắc tuồng trong những suất hát của đoàn. Nhờ đứng trong cánh gà nhắc tuồng, Minh Phụng thuộc được nhiều vai trong các tuồng hát, nắm được kỹ thuật diễn xuất của các diễn viên nên khi có dịp thế tuồng, Minh Phụng đã thể hiện thành công vượt bậc.
Năm 1965, bầu Long (chủ đoàn Kim Chung) nhận thấy Minh Phụng là một kép hát đầy tài năng và có nhiều triển vọng, ông lập tức mời Minh Phụng ký hợp đồng với một số tiền contrat kỷ lục. Khi về đại bang Kim Chung, Minh Phụng hợp cùng Minh Cảnh, Minh Vương tạo thành bộ 3 kép chánh với tên Minh vô cùng ăn khách. Đây cũng là lúc giọng ca chín mùi, nét diễn trở nên sắc sảo, Minh Phụng bắt đầu đón nhận vinh quang của một ngôi sao sân khấu. Tên của ông sánh cùng tên với những cô đào hạng nhất thời bấy giờ như: Út Bạch Lan, Diệu Hiền, Mỹ Châu, Lệ Thủy,...
Trong giai đoạn 1965–1966, Minh Phụng hát cặp cùng Mỹ Châu. Cơ duyên cho sự kết hợp này là khi nghệ sĩ Minh Cảnh – ngôi sao đang hát cặp ăn ý với Mỹ Châu – rời Kim Chung để lập đoàn riêng. Ông bầu Long đã lập tức điều Minh Phụng về đoàn Kim Chung 2 thay thế Minh Cảnh hát cặp với Mỹ Châu. Dù hơn Mỹ Châu 6 tuổi nhưng khi Mỹ Châu đang là cô đào nổi danh thì Minh Phụng mới chớm gầy dựng tên tuổi, chân ướt chân ráo về đại bang Kim Chung ở vị trí kép 3. Không chỉ hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm trên sàn diễn, Mỹ Châu còn giới thiệu Minh Phụng đi thu đĩa. Bên cạnh giọng ca liêu trai của Mỹ Châu, chất giọng "quá đẹp và lạ" của Minh Phụng lập tức gây ấn tượng với giới mộ điệu cải lương. Với những vở tuồng như Bình rượu nhiệm mầu đến Kiếm sĩ dơi, Tâm sự loài chim biển, Khi rừng mới sang thu, Băng Tuyền nữ chúa,... liên danh Minh Phụng – Mỹ Châu thật sự bùng nổ. Họ sánh vai nhau qua nhiều cung bậc yêu thương của những đôi tình nhân lãng tử, giàu nghĩa hiệp trên sân khấu cải lương.
Năm 1970, Minh Phụng chuyển sang đoàn Kim Chung 5 hát cặp với Lệ Thủy. Sự kết hợp của hai giọng ca cao vút, hai gương mặt "sáng trưng" và hai nét diễn duyên dáng đã lập tức tạo hiệu ứng. Từ Nhất kiếm bá vương, nối tiếp là Kẻ bên trời, Người trai sa mạc, Kiếp nào có yêu nhau, Xin một lần yêu nhau, Máu nhuộm sân chùa, Tây Thi - Gái nước Việt,... Báo chí kịch trường đã gọi Minh Phụng – Lệ Thủy là "Cặp bão biển đang dâng cao" đối trọng với "Cặp sóng thần" Hùng Cường - Bạch Tuyết của đoàn Dạ Lý Hương.
Vào những năm thập niên 70, Minh Phụng còn là nghệ sĩ độc quyền của Hãng Dĩa Việt Nam, ngoài các tuồng đã hát trên sân khấu Kim Chung được thu vào băng đĩa, Minh Phụng còn thâu thanh vọng cổ ca độc chiếc, tân cổ giao duyên ca chung với Mỹ Châu, Lệ Thủy, Phượng Liên, Diệu Hiền, Út Bạch Lan. Các dĩa vọng cổ của Minh Phụng có một thời gian dài được khán thính giả vô cùng yêu thích, được Hãng Dĩa Việt Nam tái xuất bản nhiều lần. Có thể kể đến các bài vọng cổ như: Trả lại thời gian, Nước mắt quê hương, Đêm tiền đồn, Thư cho vợ hiền, Bông cỏ mây, Đừng nói xa nhau, Mai lỡ hai mình xa nhau, Nhớ nhau hoài,...
Sau năm 1975
Sau năm 1975, Minh Phụng làm trưởng đoàn Tiếng hát quê hương của tỉnh Bến Tre.
Đến năm 1976, Minh Phụng về làm kép chánh của gánh hát Hương Mùa Thu và nổi tiếng qua các vở như: Gánh cỏ sông Hàn, Con cò trắng, Lửa phi trường,...
Năm 1994, ông lập lại đoàn hát Hương Mùa Thu với thành phần diễn viên như: Minh Phụng, Linh Cảnh, Kiều Tiên, Bảo Ngọc, Ngọc Cẩm Thúy, Vương Bình, Thanh Phú, Điền Tử Lang, Thanh Thủy, Ngọc Ánh, Diệu Thanh, hề Giang Tâm. Đoàn Hương Mùa Thu của Minh Phụng diễn ở tỉnh Minh Hải (Cà Mau) và các tỉnh lân cận khác. Sau đó, Minh Phụng đổi tên Hương Mùa Thu thành đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng. Từ năm 1996 trở về sau, các gánh hát thua lỗ, Đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng cầm cự, kéo dài đến qua năm 2000, rồi ngưng hát. Nghệ sĩ Minh Phụng đã thua lỗ khá nhiều cho đoàn hát.
Sau lần phẫu thuật tim vào năm 2005, cùng với điều trị suy thận và hoại tử chân kéo dài, sức khỏe Minh Phụng suy yếu dần. Đầu tháng 11 năm 2008, ông vẫn cố gắng xuất hiện trong liveshow của nghệ sĩ Ngọc Đáng tổ chức tại rạp Hưng Đạo. Đó là lần đứng trên sân khấu cuối cùng của ông.
nhỏ|Phần mộ NSƯT Minh Phụng.|thế=
Hơn 50 năm gắn bó với sân khấu cải lương, trong giai đoạn hưng thịnh nhất của bộ môn nghệ thuật này, Minh Phụng đã đi vào lòng khán giả mộ điệu với hình ảnh một kép đẹp, có giọng hát đặc trưng với thanh âm cao, ngọt ngào và sâu lắng. Nhiều vở diễn có sự góp mặt của ông và do ông thể hiện đã đi sâu vào lòng khán giả như: Bóng hồng sa mạc (vai Thái tử Phi Sơn), Tâm sự loài chim biển (vai Áo Vũ Cơ Hàn), Xin một lần yêu nhau (vai Âu Thiên Vũ), Kiếp nào có yêu nhau (vai Mộ Dung Thạch),...
Ông qua đời ngày 29 tháng 11 năm 2008 và được an táng tại chùa Nghệ Sĩ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các vai diễn nổi bật
Cải lương
Ca cảnh, chặp cải lương
Các bài tân cổ, vọng cổ
Tân cổ
Vọng cổ
Trung tâm Asia
Gia đình
Ông sống chung với nghệ sĩ Diệu Huê lúc ở đoàn Kim Chung và có ba người con, trong đó có con gái là nghệ sĩ Tiểu Phụng. Đến năm 1976, cả hai chia tay.
Năm 1977, khi hát cho đoàn Hương Mùa Thu, ông kết hôn với nghệ sĩ Kiều Tiên và có hai người con, trong đó có con gái là nghệ sĩ Y Phụng.
Năm 2005, ông đăng báo từ con đối với Tiểu Phụng vì cho rằng Tiểu Phụng lợi dụng lúc ông bị bệnh nặng đã liên lạc với bạn bè, người thân và người ái mộ ông ở bên Mỹ để quyên góp tiền, quà.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chợ Minh Phụng** hay **Chợ Cây Gõ**, thuộc địa phận Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 2412 m². Chợ Minh Phụng được chia thành 440 sạp với tổng mức vốn đầu
**Minh Phụng** (tên khai sinh: **Ngô Văn Thiệu**, 16 tháng 9 năm 1944 – 29 tháng 11 năm 2008) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, thành danh từ trước năm 1975. Nhờ sở hữu
**Vụ án Epco-Minh Phụng** là một trong những vụ án kinh tế nổi tiếng nhất của Việt Nam thập niên 90. Epco-Minh Phụng từng là công ty liên doanh của Thành phố Hồ Chí Minh.
**Tăng Minh Phụng** (1957 – 2003), là một doanh nhân người Việt gốc Hoa. Ông nguyên là Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Giám đốc Công ty TNHH Minh Phụng và là Phó Giám
**Hoàng Minh Đạo**, tên thật **Đào Phúc Lộc**, (1923 – 1969) là một sĩ quan tình báo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến tranh Việt Nam. Ông phụ trách phòng Tình báo
**Phùng Ngọc Huy** (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1985) là một nam ca sĩ và diễn viên người Việt Nam. Anh được đông đảo khán giả biết đến với vai trò là diễn viên
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Phùng Khắc Khoan** (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự là **Hoằng Phu**, hiệu là **Nghị Trai**, **Mai Nham Tử**, tục gọi là **Trạng Bùng** (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan
**Phùng Tiểu Liên** (chữ Hán: 馮小憐, không rõ năm sinh năm mất), còn gọi **Bắc Tề Phùng Thục phi** (北齊馮淑妃), là [Tả Hoàng hậu; 左皇后], tức Hoàng hậu không chính thống của Bắc Tề Hậu
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Năm phụng vụ** (hay còn gọi là Lịch Kitô giáo) là chu kỳ thời gian xác định bằng các mùa phụng vụ với những nghi thức và lễ hội đặc trưng của Kitô giáo, được
**Phùng Quán** (1932–1995) là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam, được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2007. ## Tiểu sử Phùng Quán sinh tháng 1 năm
**Phùng Xuân Nhạ** (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1963) là một giáo sư, tiến sĩ ngành Kinh tế, Ông cũng từng là Giảng viên, Phó Trưởng phòng Hành chính – Tuyên huấn – Đối
Mặt trống đồng Ngọc Lũ-biểu tượng của [[người Việt]] Kiến trúc mái chùa đặc trưng của [[người Việt]] [[Châu thổ sông Hồng nhìn từ vệ tinh]] **Văn minh sông Hồng** (từ đầu Thiên niên kỷ
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Hoàng Phùng Cơ** (chữ Hán: 黄馮基; ?-1787), còn gọi là **quận Thạc** (từ chữ Thạc quận công 碩郡公), là tướng thời Lê Mạt trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia phò tá và dự
**Phùng Tích Phạm** (), hiệu **Hi Phạm** (希範), là một quan viên và đại tướng trụ cột của chính quyền Minh Trịnh tại Đài Loan trong thế kỷ 17. Phùng Tích Phạm là người huyện
**Phùng Mộng Long** (馮夢龍; 1574–1646) sinh vào năm thứ 2 thời Vạn Lịch triều Minh và mất thời Thuận Trị triều Thanh, là tác giả của tiểu tuyết nổi tiếng _Đông Chu liệt quốc_. Trước
nhỏ|phải|Cổng vào chùa Phụng Sơn (chùa gò) **Chùa Phụng Sơn**, tên chữ là **Phụng Sơn Tự**, còn có tên là **chùa Gò**, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11,
**Phùng Khánh Linh** (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1994) là một nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc người Việt Nam. Những bài hát do cô sáng tác luôn thu hút
**Trương Trung Phụng** (chữ Hán: 張中奉, 1908 - 1982), quê ở Nghệ An, là người nổi tiếng về truyền thống yêu nước và cách mạng. Ông cũng là đảng viên của Việt Nam Cách mệnh
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Y Phụng** (tên thật là **Nguyễn Mỹ Thể**, sinh ngày 18 tháng 02 năm 1976) là một nữ diễn viên điện ảnh, ca sĩ, người mẫu ảnh người Việt Nam. Cô là ái nữ của
**Vũ Trọng Phụng** (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tay là truyện
**Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phùng Quang Thanh** (2 tháng 2 năm 1949 – 11 tháng 9 năm 2021) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, ông mang quân
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Phùng Dị** (chữ Hán: 冯异, ? – 34) là tướng lãnh, khai quốc công thần, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Quy thuận Lưu
**Lục Tiểu Phụng 2** (tên tiếng Anh: Master Swordsman Lu Xiaofeng 2, tiếng Trung Quốc: 陸小鳳之鳳舞九天, tên đầy đủ là Lục Tiểu Phụng: Phụng Vũ Cửu Thiên) là bộ phim truyền hình nhiều tập do
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Văn hóa Phùng Nguyên** là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, tồn tại từ cuối thiên niên kỷ III TCN, đầu thiên
**Bùi Phùng** (1920 – 1999), là một Tướng lĩnh cao cấp Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thượng tướng , nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế
nhỏ|phải|Tranh vẽ phúng dụ về sự giàu có **Phúng dụ** hay **nói bóng** hoặc **ám chỉ**, là một biện pháp chuyển nghĩa trong nghệ thuật ngôn từ; một kiểu hình tượng, một nguyên tắc tư
**Phùng Hưng** (chữ Hán: 馮興; ? – ?), nổi tiếng với tôn hiệu **Bố Cái Đại Vương** (chữ Hán: 布盖大王), là thủ lĩnh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ An Nam của nhà Đường
**Công tước** thời nhà Minh thường được phong cho công thần khai quốc như Từ Đạt,Thường Ngộ Xuân,Lý Thiện Trường,Quách Dũ Sau này đây thường là tước truy phong cho công thần.Công thần được phong
**Phùng Tiến Minh** (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1978) là một diễn viên phim truyền hình và diễn viên kịch, nhạc sĩ, ca sĩ. Anh được nhà nước trao tặng danh hiệu nghệ sĩ
phải|nhỏ|Đường Nguyễn Thị Minh Khai đoạn bên khuôn viên [[Dinh Độc Lập, đối diện là cổng Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn vào đầu năm 2020]] **Đường Nguyễn Thị Minh Khai** là một
**Phùng Văn Tửu** (1923-1997) là một luật gia, chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa VIII (1987-1992) và khóa IX (1992-1997)
**Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội** - gọi tắt là **Việt Cách** là một tổ chức chính trị Việt Nam. ## Thành lập Việt Cách là tổ chức thân Trung Hoa Dân Quốc bao
**Minh Vương** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Vưng,** sinh ngày 1 tháng 6 năm 1950) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng người Việt Nam, thành danh từ trước năm 1975. Ông kết hợp cùng
**Thành Gia Định** hay còn được gọi là **Phụng Thành**, **Phượng Thành** là tên một tòa thành cổ của Việt Nam do vua Minh Mạng ra lệnh xây mới sau khi thành Bát Quái bị
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Nguyễn Văn Phụng** (sinh ngày 16/10/1960) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hồ Chí Minh. ##
**Phùng Ngọc Hùng** (1950) là nhà thơ, nhà văn viết cho thiếu nhi; ông từng đảm trách chức vụ Bí thư trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Phó chủ nhiệm Ủy
**Phùng Thanh Phương** (sinh ngày 30 tháng 3 năm 1978) là một huấn luyện viên bóng đá và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam, hiện đang là huấn luyện viên trưởng của câu
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Phùng Tuyết Phong** (; 2 tháng 6 năm 1903 – 31 tháng 1 năm 1976) là một nhà văn và nhà hoạt động Trung Quốc được biết đến với những đóng góp trong phê bình
**Phùng Quý** (chữ Hán: 冯贵, ? – 1422), người huyện Vũ Lăng , quan viên nhà Minh, tử trận khi trấn áp khởi nghĩa Lam Sơn tại Việt Nam. ## Sự nghiệp Năm Kiến Văn
**Trần Đức** (chữ Hán: 陈德, ? – 1378), tự **Chí Thiện**, người phủ Hào Châu, hành tỉnh Giang Chiết , tướng lãnh đầu đời Minh. ## Tham gia bình nam Đức sinh ra trong một