Mikhael VI Bringas (, Mikhaēl VI Bringas; ? – 1059), còn gọi là Stratiotikos ("Thống soái", "Kiêu hùng" hay "Hiếu chiến") hay Gerontas ("Lão làng"), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1056 đến năm 1057.
Tiểu sử
Vốn là bà con họ hàng của quyền thần Joseph Bringas (có ảnh hưởng dưới thời Romanos II), Mikhael Bringas là một patrikios (quý tộc) già cả và là một thành viên thuộc tầng lớp quan lại từng phụng sự Đại thần tài chính quân vụ (và do đó có hình dung từ Stratiotikos). Đích thân nữ hoàng Theodora đã chọn Mikhael Bringas làm người kế vị ngay trước khi bà qua đời vào đầu tháng 9 năm 1056. Việc ông được chọn lên ngôi báu còn nhờ vào ảnh hưởng vững vàng của Leon Paraspondylos, viên cố vấn đáng tin cậy nhất của Theodora.
Mới lên ngôi được ít lâu, Mikhael VI đã thoát khỏi một âm mưu tạo phản từ Theodosios, một người cháu của tiên đế Konstantinos IX Monomachos, Ngoài ra, ông còn phải đối mặt với sự bất mãn của giới quý tộc quân sự. Điều sai lầm chí mạng của ông chính là phớt lờ quyền lợi chính đáng của tướng Nikephoros Bryennios, mà hoàng đế đã cho phục hồi địa vị và chức tước kể từ khi ông ta cãi nhau với Nữ hoàng Theodora, nhưng từ chối trả lại tài sản như cũ. Sau lần bãi chức Bryennios vì lời than vãn trong một lần triều kiến, hoàng đế hoàn toàn bị quân đội xa lánh, vốn vẫn còn là một thành phần đầy thế lực trong xã hội thời đó. và phiến quân mau chóng tiến về kinh thành Constantinopolis. Không còn cách nào khác, Mikhael VI vội vàng phái viên đại thần tiếng tăm lừng lẫy Mikhael Psellos làm sứ giả tới thương lượng với phe nổi dậy, đề nghị nhận Isaakios làm con nuôi và ban tước hiệu Caesar, nhưng đề xuất của ông đã bị từ chối công khai. Bản thân Isaakios tỏ ra cởi mở hơn trong cuộc đàm phán và triều đình hứa hẹn sẽ trao cho ông danh phận đồng hoàng đế. Thế nhưng, trong quá trình mật đàm đột nhiên nổ ra một vụ bạo động ủng hộ Isaac ở Constantinopolis. Thượng phụ Mikhael Keroularios đã đứng ra thuyết phục Mikhael VI thoái vị nhường ngôi cho Isaakios vào ngày 31 tháng 8 năm 1057. Vị hoàng đế hợp lệ đành nghe theo lời khuyên của thượng phụ từ bỏ ngôi vị xuống làm tu sĩ. Ông lui về sống ẩn dật tại nhà riêng và qua đời lặng lẽ ở đó vào năm 1059.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikhael VI Bringas** (, _Mikhaēl VI Bringas_; ? – 1059), còn gọi là _Stratiotikos_ ("Thống soái", "Kiêu hùng" hay "Hiếu chiến") hay _Gerontas_ ("Lão làng"), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1056 đến
**Mikhael VIII Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (; 1223 – 1282) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1259 đến 1282. Mikhael VIII là người sáng lập vương triều Palaiologos cai trị Đế quốc
**Mikhael Psellos** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ψελλός, _Mikhaēl Psellos_) là một tu sĩ, nhà văn, triết gia, chính trị gia và nhà sử học Đông La Mã gốc Hy Lạp. Ông sinh vào năm 1017 hoặc
**Mikhael VII Doukas** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ζ΄ Δούκας, _Mikhaēl VII Doukas_; khoảng 1050 – 1090), biệt danh _Parapinakēs_ (Παραπινάκης, nghĩa là "trừ một phần tư", liên quan đến sự mất giá của tiền tệ Đông La
**Ioannes VI Kantakouzenos** hoặc **Cantacuzenus** (, _Iōannēs VI Kantakouzēnos_) (_khoảng_ 1292 – 15 tháng 6, 1383) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1347 đến 1354. ## Thiếu thời Sinh ra ở Constantinopolis, Ioannes
**Mikhael III** (, _Mikhaēl III_; 19 tháng 1, 840 – 23/24 tháng 9, 867) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 842 đến 867. Mikhael III là thành viên thứ ba và cuối cùng
**Mikhael II** (, _Mikhaēl II_; 770 – 2.10. 829), tên hiệu là **Amoria** () hay **Người nói lắp** (ὁ Τραυλός hoặc ὁ Ψελλός), là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 12 năm 820 cho
**Mikhael IV xứ Paphlagonia** (, _Mikhaēl ho Paphlagōn_; 1010 – 10 tháng 12, 1041) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 4 năm 1034 cho tới khi mất vào ngày 10 tháng
**Mikhael V** (Hy Lạp: Μιχαήλ Ε΄, _Mikhaēl V_; 1015 – 24 tháng 8, 1042) là Hoàng đế Đông La Mã tại vị trong vòng bốn tháng vào năm 1041–1042, cháu và người thừa kế của Mikhael
**Mikhael I Rhangabe** (, _Mikhaēl I Rhangabe_; _khoảng_ 770 – 11 tháng 1, 844) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 811 đến năm 813. Mikhael là con trai của nhà quý tộc (_patrikios_)
**Isaakios I Komnenos** (, _Isaakios I Komnēnos_; k. 1007– 1060/61) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1057 đến năm 1059, thành viên tại vị đầu tiên của nhà Komnenos. Dưới thời kỳ trị
**Mikhael IX Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (, _Mikhaēl IX Palaiologos_), (17 tháng 4, 1277 – 12 tháng 10, 1320), trị vì như là đồng Hoàng đế Đông La Mã với đế hiệu chính thức vào năm
**Leon VI**, danh xưng **Hiền nhân** hay **Triết gia** (, _Leōn VI ho Sophos_, 19 tháng 9, 866 – 11 tháng 5, 912), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 886 đến 912. Là
**Mikhael Choniates** (hay **Akominatos**) () (_khoảng_ 1140 – 1220), là nhà văn và giáo sĩ Đông La Mã gốc Hy Lạp, sinh trưởng trong một gia đình giàu sang tại Chonae (nay là thành cổ
nhỏ|Tiểu luận của Mikhail Glik "Chronography" (Bản mẫu:Lang-el) trong Corpus Scriptorum Historiae Byzantinae 1836. **Mikhael Glykas** (; ? - ?) là sử gia, nhà thần học, nhà toán học, nhà thiên văn và nhà thơ
**Konstantinos VI** (, _Kōnstantinos VI_; 14 tháng 1, 771 – trước 805) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 780 đến 797. ## Nhiếp chính Konstantinos VI là con trai duy nhất của Hoàng
**Basileios I**, danh xưng **người xứ Makedonia** (, _Basíleios hō Makedṓn_; 811 – 29 tháng 8, 886) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 867 đến 886. Sinh ra trong một gia
**Zoë** (, _Zōē_ nghĩa là "_sinh mệnh_") ( 978 – Tháng 6, 1050) là Nữ hoàng Đông La Mã thuộc nhà Makedonia trị vì cùng với em gái Theodora từ ngày 19 tháng 4 đến
**Theodora** (; 980 – 31 tháng 8, 1056) là Nữ hoàng Đông La Mã sinh ra trong nhà Makedonia nắm quyền cai trị Đế quốc Đông La Mã suốt gần hai trăm năm. Bà tham
**Andronikos II Palaiologos** () (25 tháng 3, 1259 – 13 tháng 2, 1332), viết theo tiếng Latinh là **Andronicus II Palaeologus**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1282 đến 1328. Ông là con
**Leon V xứ Armenia** (, _Leōn V ho Armenios_; ; 775 – 25 tháng 12, 820) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 813 đến 820. Với tư cách là một vị tướng cấp cao,
**Ioannes IV Doukas Laskaris** (΄ Δούκας Λάσκαρις, _Iōannēs IV Doukas Laskaris_) (25 tháng 12, 1250 – khoảng 1305) là Hoàng đế Nicaea từ ngày 18 tháng 8 năm 1258 đến ngày 25 tháng 12 năm
thumb|Theodora được miêu tả như một vị thánh, trong một biểu tượng tôn giáo của [[Hy Lạp vào thế kỷ 19.]] **Theodora** (, khoảng 815 – sau 867) là Hoàng hậu Đông La Mã và
**Nikephoros Bryennios Trẻ** (Hy Lạp: Νικηφόρος Βρυέννιος, _Nikēphoros Bryennios; _1062–1137) là một tướng lĩnh, chính khách và sử gia Đông La Mã. Sinh trưởng tại Orestias (Orestiada, Adrianople) ở thema vùng Makedonia. ## Thân thế
**Nikephoros Bryennios Già** (), là một vị tướng Đông La Mã đã cố gắng tự lập làm hoàng đế vào cuối thế kỷ 11. Người đương thời đều xem ông là nhà chiến thuật giỏi
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Nikephoros III Botaneiates** (, khoảng 1002 – 10 tháng 12, 1081), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1078 đến 1081. Ông thuộc về một gia tộc tự xưng là hậu duệ
thumb|[[Vệ binh Varangia, hình minh họa trong cuốn biên niên sử thế kỷ 11 của Ioannes Skylitzes.]] right|thumb|Đoạn mô tả [[ngọn lửa Hy Lạp trong _Madrid Skylitzes_]] **Ioannes Skylitzes** (, _Iōannēs Skylitzēs_/_Skyllitzēs_/_Skylitsēs_; đầu thập niên
**Madrid Skylitzes** là một bản thảo được trang hoàng rực rỡ có hình minh hoạ phong phú nằm trong bộ _Sử yếu_ (Σύνοψις Ἱστοριῶν) của Ioannes Skylitzes, tác phẩm kể về triều đại của các
thumb|469x469px|Búc tranh khắc bằng ngà voi gọi là "[[Ngà Romanos" mà một số học giả cho rằng có thể chính là Eudokia và Romanos IV được Chúa Kitô đội vương miện.]] **Eudokia Makrembolitissa** (, khoảng
**Staurakios** (; ? – 11 tháng 1, 812) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 2 tháng 10 năm 811 để kế thừa phụ hoàng Nikephoros I đã thiệt
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
**Konstantinos IX Monomachos**, Latinh hóa thành **Constantinus IX Monomachus** (; 1000 – 1055), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 11 tháng 6 năm 1042 đến ngày 11 tháng 1, 1055. Ông được Hoàng
**Eudokia** (hay **Eudocia**) **Ingerina** () (khoảng 840 – 882) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Basileios I, tình nhân của tiên đế Mikhael III, và là mẹ của cả hai Hoàng đế Leon
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
**Konstantinos X Doukas** (, _Kōnstantinos X Doukas_) (1006 – 1067) là vị Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1059 đến 1067. ## Triều đại Konstantinos Doukas là con trai của Andronikos Doukas, một nhà
**Cuộc chiến Rus-Đông La Mã** năm 860 là chiến dịch quân sự lớn duy nhất của quân viễn chinh Khã hãn quốc Rus được ghi chép lại trong các nguồn tài liệu của Đông La
**Trận Lalakaon** (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Λαλακάοντος) hoặc còn gọi là **Trận Poson** (hoặc **Porson**) (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Πό(ρ)σωνος)) diễn ra vào năm 863 giữa Đế quốc Đông La Mã và một
**Eirene Doukaina** hay **Ducaena** (, _Eirēnē Doukaina_; – 19 tháng 2, 1138) là vợ của Hoàng đế Đông La Mã Alexios I Komnenos, và là mẹ của hoàng đế Ioannes II Komnenos và nữ sử
**Trận Dyrrhachium** (ngày nay gần Durrës ở Albania) là một trận đánh diễn ra vào ngày 18 tháng 10 năm 1081, giữa quân đội Đông La Mã do Hoàng đế Alexios I Komnenos chỉ huy
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Andronikos III Palaiologos**, Latinh hóa **Andronicus III Palaeologus** (; 25 tháng 3, 1297 – 15 tháng 6, 1341) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1328 đến 1341, sau khi trở thành đối thủ
**Ioannes III Doukas Vatatzes**, (, _Iōannēs III Doukas Vatatzēs_, khoảng 1193, Didymoteicho – 3 tháng 11, 1254, Nymphaion), là Hoàng đế Nicaea trị vì từ năm 1222 đến năm 1254. Kế vị ông là người
**Alexios III Angelos** () (khoảng 1153 – 1211) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 3 năm 1195 cho đến ngày 17/18 tháng 7 năm 1203. Là một thành viên có mối liên hệ
**Cuộc tái chiếm Constantinopolis năm 1261** được quân lính của Đế quốc Nicaea, nhà nước kế thừa mạnh mẽ nhất của Đông La Mã thực hiện. Qua đó, Đế quốc Đông La Mã đã được
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba