✨Miến Điện thuộc Anh

Miến Điện thuộc Anh

Sự cai trị của Anh ở Miến Điện () kéo dài từ năm 1854 đến 1948, từ các cuộc chiến tranh Anh-Miến Điện thông qua việc thành lập Miến Điện là một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh đến việc thành lập một thuộc địa độc lập, và cuối cùng là độc lập. Khu vực dưới sự kiểm soát của Anh được gọi là Miến Điện thuộc Anh (). Các phần khác nhau của các lãnh thổ Miến Điện, bao gồm Arakan (Bang Rakhine), Tenasserim bị người Anh sáp nhập sau chiến thắng của họ trong Chiến tranh Anh-Miến Điện đầu tiên; Hạ Miến Điện bị sáp nhập vào năm 1852 sau Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ hai. Các lãnh thổ thôn tính được chỉ định là trẻ vị thành niên tỉnh (một ủy viên chính), Miến Điện thuộc Anh, Ấn Độ thuộc Anh năm 1862.

Sau Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ ba năm 1885, Thượng Miến Điện bị sáp nhập và năm sau, tỉnh Miến Điện ở Ấn Độ thuộc Anh được thành lập, trở thành một tỉnh lớn (một Trung úy) vào năm 1897. Sự sắp xếp này kéo dài cho đến năm 1897. Năm 1937, khi Miến Điện bắt đầu được quản lý riêng bởi Văn phòng Miến Điện dưới thời Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ và Miến Điện. Sự cai trị của Anh đã bị phá vỡ trong thời gian Nhật chiếm đóng phần lớn đất nước trong chiến tranh thế giới thứ hai. Miến Điện giành được độc lập từ sự cai trị của Anh vào ngày 4 tháng 1 năm 1948.

Miến Điện đôi khi được gọi là "Thuộc địa Scotland", do vai trò nặng nề của Scotsmen trong việc chiếm đóng và điều hành đất nước, một trong những sinh vật đáng chú ý nhất là Sir James Scott và Công ty Flrawilla Irrawaddy.

Sự phát triển giáo dục của Anh, ảnh hưởng đến Phật giáo Miến Điện, do đó các nhà sư bắt đầu nổi dậy, vì vậy Phật giáo Miến Điện trở thành chủ nghĩa dân tộc Miến Điện và lực đẩy chống thực dân. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, làn sóng độc lập dân tộc cũng được đưa vào Myanmar. Năm 1920, "Phong trào giáo dục quốc gia" chống lại giáo dục thuộc địa tại Đại học Yangon đã dẫn đến việc thành lập "Hiệp hội nhân dân Miến Điện" kết hợp với các nhóm khác. Các yêu cầu chính trị và giáo dục mở cửa và cải cách đã bị người Anh từ chối. Trong những năm 1930, các cuộc bạo loạn của sinh viên và nông dân vẫn tiếp tục, và người Anh đã áp dụng chính sách trẻ hóa.

Năm 1936, trong cuộc bầu cử đầu tiên và duy nhất dưới sự cai trị của Anh, Tiến sĩ Bamo đã được bầu làm thủ tướng của chính phủ Anh. Năm 1937, người Anh đã tạo ra một Hiến pháp Myanmar độc đáo, đồng ý rằng người Miến Điện có thể kiểm soát các vấn đề nội bộ của đất nước.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện vào tháng 5 năm 1942 và thành lập một chính phủ hành pháp độc lập của Myanmar do Bamo đứng đầu. Với sự hỗ trợ của Nhật Bản, Tướng Aung San, người chống lại chính quyền thực dân Anh và khao khát độc lập, tuyên bố rằng Myanmar độc lập khỏi Anh. Năm 1944, Aung San trở thành người ủng hộ Hoa Kỳ và Anh. Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, quân Đồng minh tuyên bố độc lập của Myanmar có hiệu lực. Sau chiến tranh, Myanmar vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Anh. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1948, Quốc hội Anh chính thức công nhận nền độc lập của Myanmar, sự kết thúc của Myanmar của Anh và thành lập Liên bang Miến Điện.

Lịch sử

Sau khi chiếm hoàn toàn Myanmar vào năm 1886, chế độ quân chủ Miến Điện bị xoá bỏ và giới quý tộc bị tước hết quyền lực, Myanmar được cai trị từ Calcuta như một tiểu khu vực của Đế quốc Anh - Ấn. Mô hình quản lý Ấn Độ do người Anh áp đặt vốn chẳng hiểu gì hoặc tôn trọng gì các cơ cấu xã hội tại chỗ, vùng đất thấp Myanmar vốn là những đồng bằng màu mỡ là cái nôi của người Miến Điện và là trái tim của các vương quốc Miến Điện lại được cai trị trực tiếp bởi chính phủ thuộc địa với đầy đủ các chính sách chính trị và kinh tế của Anh

Ở vùng đồi cao của Myanmar, ở các khu vực có các sắc tộc sinh sống như người Shan, người Karen thì người Anh áp dụng một chính sách cai trị gián tiếp. Cơ cấu xã hội và tầng lớp tinh hoa bản địa ít nhiều vẫn được giữ nguyên vẹn khác với vùng thủ đô của Miến Điện, điều này đã dẫn tới làm gia tăng sự chia rẽ giữa người Miến Điện và các sắc tộc thiểu số

Sự thống trị của thực dân Anh đã tạo ra một bộ máy cai trị mạnh mẽ, được duy trì bằng việc kiểm soát xã hội dựa vào một lực lượng cảnh sát và quân đội có hiệu quả. Bộ máy cai trị do người Anh giám sát, nhưng được hình thành với các viên chức phần lớn do người Miến Điện gốc Anh và người Ấn. Tầng lớp thượng lưu quan chức mới do Anh tạo ra đại bộ phận là người Miến Điện gốc Anh với mô thức văn hoá chịu ảnh hưởng của Anh nhiều hơn là của Myanmar, điều này đã đặt ra nhiều vấn đề lớn cho Myanmar sau khi giành độc lập

Sự cai trị của Anh đã làm gia tăng tính đa dạng về sắc tộc của Myanmar, mối liên kết trong bộ máy cai trị với Ấn Độ có nghĩa là người Ấn được tự do di dân, cùng với dân nhập cư người Hoa từ Malaya đã dẫn tới tại các vùng đất thấp hình thành một xã hội đa chủng tộc, đa tôn giáo

Người Anh đã làm thay đổi nền kinh tế của Myanmar, vào những năm 1850 họ khuyến khích dân định cư ở vùng đồng bằng, nơi phần lớn là các vùng đầm lầy và rừng rậm, hệ thống đường sá, cảng biển được mở rộng với kết quả là làn sóng mạnh mẽ người Miến Điện từ vùng phía bắc khô cằn tiến xuống vùng đồng bằng màu mỡ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sự cai trị của Anh ở Miến Điện** () kéo dài từ năm 1854 đến 1948, từ các cuộc chiến tranh Anh-Miến Điện thông qua việc thành lập Miến Điện là một tỉnh của Ấn
**Nhật Bản xâm chiếm Miến Điện** là chương mở đầu của Mặt trận Miến Điện tại mặt trận Đông Nam Á trong Thế chiến II, diễn ra trong vòng bốn năm từ 1942 đến năm
thumb|Một bức khắc [[mezzotint của Fort William, Calcutta, thủ phủ Xứ chủ quản Bengal ở Ấn Độ thuộc Anh năm 1735.]] **Các tỉnh Ấn Độ thuộc Anh**, trước đó là các **xứ chủ quản** (presidencies)
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
**Hồng Kông thuộc Anh** (tiếng Anh: _British Hong Kong_) là một thuộc địa vương thất và sau đó là Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh từ năm 1841 đến năm 1997, ngoại trừ giai đoạn
**Trà sữa Miến Điện** (, ) là một loại thức uống được làm từ trà có nguồn gốc xuất xứ ở Myanmar, theo truyền thống được làm bằng trà đen và sữa (thường là sữa
**Tiếng Miến Điện**, **tiếng Miến** hay **tiếng Myanmar** (မြန်မာဘာသာ, MLCTS: _myanma bhasa_, IPA: ) là ngôn ngữ chính thức của Myanmar. Dù Hiến pháp Myanmar cho rằng tên tiếng Anh chính thức của ngôn ngữ
**Ceylon thuộc Anh** (Tiếng Sinhala: බ්‍රිතාන්‍ය ලංකාව, La tinh hóa: _Britānya Laṃkāva_; Tiếng Tamil: பிரித்தானிய இலங ்கை, La tinh hóa: _Biritthāṉiya Ilaṅkai_; Tiếng Anh: _British Ceylon_), tên gọi chính thức: **Các Khu định cư và
**Mã Lai thuộc Anh** () là một trong những thuộc địa của Đế quốc Anh, bao gồm Định cư Eo biển (thành lập năm 1826), Liên bang Mã Lai (thành lập năm 1895) và năm
nhỏ|Lãnh thổ hải ngoại (đỏ) và Vương quốc (lục) **Lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh** gồm 14 vùng lãnh thổ phụ thuộc về quyền tài phán và chủ quyền đối với Vương quốc Liên hiệp
**Ấn Độ thuộc Anh** (, raj trong tiếng Devanagari: राज, tiếng Urdu: راج, tiếng Anh: |ɑː|dʒ) là tên gọi đặt cho giai đoạn cai trị thuộc địa Anh ở Nam Á giữa 1858 và 1947;
**Mặt trận Miến Điện 1944 - 1945** là các chiến dịch quân sự diễn ra tại Miến Điện trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 8 năm 1945
**Honduras thuộc Anh** là thuộc địa Vương quốc Anh trên bờ biển phía đông của Trung Mỹ, phía nam Mexico, từ 1862 đến 1964, sau đó là thuộc địa tự quản, đổi tên thành Belize
**Chiến tranh Anh Miến** là tên chung của ba cuộc chiến giữa vương quốc Anh và Miến Điện (Myanma bây giờ) vào những năm 1823-1826, 1852-1853 và 1885. ## Diễn biến Từ suốt thế kỷ
**Phương diện quân Miến Điện** (緬甸方面軍, Biruma hōmen gun), là một phương diện quân thuộc quân đội Đế quốc Nhật Bản, tham gia thế chiến thứ 2. ## Lịch sử Phương diện quân Miến Điện
**Chiến tranh Anh–Miến thứ nhất** (tiếng Anh: _First Anglo-Burmese War_, ; ) diễn ra từ ngày 5 tháng 3 năm 1824 đến ngày 24 tháng 2 năm 1826. Cuộc chiến tranh diễn ra dưới thời
**Mặt trận Miến Điện** là một loạt các trận đánh và chiến dịch diễn ra tại Miến Điện (ngày nay là Myanmar). Là một phần của Mặt trận Đông Nam Á trong Thế chiến 2,
Xiêm La và Miến Điện là hai nước láng giềng nằm ở phía tây của bán đảo Đông Nam Á, vốn có những mối quan hệ phức tạp về nhiều mặt. Từ thế kỷ XVI
George Gibson (?-1825) (sử nhà Nguyễn gọi là **Hợp Thần Thăng Thụ** hoặc **Hợp Thời Thăng Thụ**) Bản tường trình về sứ mệnh ở Việt Nam của Gibson có chứa nhiều thông tin đương thời
phải|nhỏ|Quốc kỳ Đế quốc Anh Một **lãnh thổ tự trị** () là bất kỳ quốc gia nào trong số nhiều quốc gia tự quản của Đế quốc Anh, trước đây được gọi chung là **Khối
:_Bài này viết về tuyến đường sắt được Nhật Bản xây dựng trong Thế chiến II. Về các bài viết liên quan tới các tuyến đường sắt của Myanmar, xem Các tuyến đường sắt của
**Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Miến Điện** ( _Pyihtaunghcu Soshallaitsammat Myanmar Ninengantaw_) là quốc gia xã hội chủ nghĩa quản lý Miến Điện trong giai đoạn từ 1974 đến 1988. Thủ tướng
thumb|Phạm vi phân bố trăn Miến Điện ở Hoa Kỳ năm 2007 Trăn Miến Điện (_Python bivittatus_) là loài bản địa Đông Nam Á. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 20, chúng đã trở thành
thumb|right|Đường Miến Điện và [[đường Ledo năm 1944]] **Đường Miến Điện** (tiếng Trung: 滇缅公路) là một con đường nối liền Myanmar với phía tây nam của Trung Quốc. Hai đầu cuối của tuyến đường là
**Quân đội Đồng minh Dân chủ Dân tộc Miến Điện** (_Myanmar National Democratic Alliance Army-MNDAA_) là một tổ chức vũ trang sắc tộc hoạt động chủ yếu tại các bang Shan và Kachin, miền bắc
phải|Vòng phía bắc trên Quốc lộ 1285 từ [[Mae Hong Son được dựa trên mạng lưới đường ban đầu được xây dựng vào năm 1943 để kết nối _Saharat Thai Doem_ với phần còn lại
**Chiến tranh Anh-Maratha lần thứ ba** (1817–1819) là cuộc xung đột cuối cùng và mang tính quyết định giữa Công ty Đông Ấn Anh (EIC) và Đế quốc Maratha ở Ấn Độ. Cuộc chiến tranh
**Cameroon thuộc Anh** là một lãnh thổ ủy trị Hội Quốc Liên của Anh ở Tây Phi. Ngày nay, nó là một phần của Bắc Nigeria ở Tây Phi và Cameroon ở Trung Phi. Khu
phải| Bản đồ xứ Sudan thuộc Anh-Ai Cập **Sudan thuộc Anh-Ai Cập** ( __) là địa danh cũ của thuộc địa Sudan từ năm 1899 đến năm 1956 trong thời gian Sudan bị Anh và
**Cóc sừng Miến Điện** (danh pháp hai phần: **_Brachytarsophrys carinense_**, tên tiếng Anh: _Burmese Horned Toad_), là một loài lưỡng cư thuộc họ Megophryidae. Nó được tìm thấy ở Myanma và Thái Lan. Các môi
**Bướm quạ Miến Điện**, tên khoa học **_Papilio mahadeva_**, là một loài bướm thuộc họ Bướm phượng (Papilionidae). Loài Papilio mahadeva được mô tả năm 1879 bởi Moore. Loài bướm Papilio mahadeva sinh sống ở
thumb|right|[[Francis Younghusband|Col. Francis Younghusband]] **Cuộc viễn chinh Tây Tạng của Anh**, cũng được gọi là **cuộc xâm lược Tây Tạng của Anh** hoặc **cuộc viễn chinh của Younghusband đến Tây Tạng** bắt đầu vào tháng
thumb|Western hay [[Công viên St. James cuối tòa nhà Văn phòng Đối ngoại và Thịnh vượng chung vào năm 1866. Sau đó là nơi đặt Văn phòng Ấn Độ, trong khi Văn phòng Thuộc địa
**Mười ba thuộc địa**, còn được gọi là **Mười ba thuộc địa Anh** hay **Mười ba thuộc địa Mỹ**, là một nhóm các thuộc địa của Anh trên bờ biển Đại Tây Dương của Bắc
thumb|Hình ảnh [[kính hiển vi điện tử quét của một bạch cầu trung tính hay đại thực bào (màu vàng/phải) đang nuốt vi khuẩn bệnh than (màu cam/trái).]] **Hệ miễn dịch** là hệ thống bảo
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Tập đoàn Điện lực Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế là _Vietnam Electricity_, viết tắt là **EVN** (Électricité du Vietnam) thuộc Bộ Công Thương là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt của
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Ấn Độ thuộc địa** () là phần Tiểu lục địa Ấn Độ bị các cường quốc thực dân châu Âu chiếm đóng trong Kỷ nguyên Khám phá. Kỷ nguyên này đã khiến các quốc gia
**George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu