✨Madagascar
Madagascar, quốc hiệu là Cộng hòa Madagascar (phiên âm tiếng Việt: Ma-đa-gát-xca hay Ma-đa-ga-xca; ; ) là một đảo quốc ở Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển đông nam bộ của châu Phi. Quốc gia bao gồm đảo Madagascar cùng nhiều đảo ngoại vi nhỏ hơn. Sau khi vỡ ra từ siêu lục địa Gondwana, Madagascar tách khỏi Ấn Độ khoảng 88 triệu năm trước, khiến các loài thực vật và động vật bản địa tiến hóa tương đối cô lập. Do vậy, Madagascar là một điểm nóng đa dạng sinh học.
Người Nam Đảo là giống người định cư đầu tiên tại Madagascar, từ 350 TCN đến 550 CN, họ đến từ đảo Borneo bằng các xuồng chèo. Khoảng năm 1000, người Bantu vượt qua eo biển Mozambique để di cư sang Madagascar. Theo thời gian, các nhóm khác tiếp tục đến định cư tại Madagascar, mỗi nhóm đều có các đóng góp lâu dài cho sinh hoạt văn hóa trên đảo. Dân tộc Malagasy thường được chia thành 18 hoặc nhiều hơn các phân nhóm, lớn nhất trong số đó là người Merina tại cao địa trung bộ.
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đảo Madagascar do một loạt các liên minh xã hội-chính trị cai trị. Bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX, hầu hết đảo được thống nhất và cai trị dưới chính thể Vương quốc Madagascar. Chế độ quân chủ sụp đổ vào năm 1897 khi đảo bị hấp thu vào Đế quốc thực dân Pháp. Đảo giành được độc lập từ Pháp vào năm 1960. Từ năm 1992, quốc gia chính thức được quản lý như một nền dân chủ lập hiến với thủ đô là Antananarivo.
Năm 2012, dân số Madagascar được ước tính là hơn 22 triệu, 90% trong số đó sống dưới 2 USD/ngày. Tiếng Malagasy và tiếng Pháp đều là các ngôn ngữ chính thức của đảo quốc. Phần lớn dân số trung thành với các đức tin truyền thống, Ki-tô giáo hoặc pha trộn cả hai. Du lịch sinh thái và nông nghiệp, cùng với đầu tư lớn hơn cho giáo dục, y tế và doanh nghiệp tư nhân, là những yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển của Madagascar.
Từ nguyên
Trong tiếng Malagasy, đảo Madagascar được gọi là Madagasikara và cư dân trên đảo được gọi là Malagasy. Tên gọi "Madagascar" không có nguồn gốc bản địa song phổ biến đối với người châu Âu từ thời kỳ Trung Cổ. Tên gọi Madageiscar được ghi chép lần đầu trong hồi ký của nhà thám hiểm Venezia Marco Polo trong thế kỷ XIII, nó là một dạng sai lệch của tên Mogadishu, cảng tại Somalia mà Marco Polo đã lẫn lộn về đảo. Trong ngày Thánh Lôrensô năm 1500, nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Diogo Dias đổ bộ lên đảo và đặt tên thánh cho đảo là São Lourenço, song tên gọi của Marco Polo được ưa dùng và phổ biến trong các bản đồ thời Phục Hưng. Không có tên gọi đơn lẻ trong tiếng Malagasy có trước Madagasikara có vẻ từng được cư dân địa phương dùng để gọi đảo, song một số cộng đồng có tên gọi riêng của họ đối với một phần hoặc toàn bộ vùng đất mà họ cư trú.
Lịch sử
Thời kỳ ban đầu
Các nhà khảo cổ học ước tính rằng những người định cư đầu tiên đến trên những xuồng chèo từ nam bộ Borneo trong các làn sóng liên tiếp trong suốt giai đoạn từ 350 TCN đến 550 CN, do vậy Madagascar là một trong những vùng đất lớn cuối cùng trên Trái Đất có loài người định cư. Khi đến nơi, những người định cư ban đầu này tiến hành nông nghiệp 'chặt và đốt' để phát quang các khu rừng mưa duyên hải nhằm lấy đất trồng cấy. Những người định đầu tiên chạm trán với các động vật cỡ lớn phong phú trên đảo, gồm có vượn cáo khổng lồ, chim voi, cầy fossa khổng lồ (Cryptoprocta spelea), và hà mã Malagasy, sau đó các loài động vật này bị tuyệt chủng do săn bắn và môi trường sống bị tàn phá. Khoảng năm 600 CN, các nhóm thuộc những người định cư ban đầu này bắt đầu phát quang các khu rừng tại các cao địa trung tâm. Người Ả Rập lần đầu tiên đến đảo trong khoảng thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX. Một làn sóng những người nhập cư nói tiếng Bantu đến đảo từ phần đông nam của châu Phi vào khoảng năm 1000 CN và đưa đến zebu, một loại gia súc sừng dài và có bướu, chúng được nuôi trong các đàn lớn. Ngày nay, các linh hồn của người Vazimba được nhiều cộng đồng Malagasy truyền thống sùng kính như tompontany (chủ nhân thổ địa nguyên thủy).
Madagascar là một trung tâm mậu dịch xuyên đại dương quan trọng, kết nối các cảng tại Ấn Độ Dương trong các thế kỷ ban đầu sau khi có người đến định cư. Lịch sử thành văn của Madagascar bắt đầu với người Ả Rập, họ thiết lập các trạm mậu dịch dọc theo bờ biển tây bắc từ muộn nhất là thế kỷ X và đem đến Hồi giáo, chữ Ả Rập (dùng để chép tiếng Malagasy bằng một dạng chữ viết gọi là sorabe), thuật chiêm tinh Ả Rập và các yếu tố văn hóa khác. Các thủy thủ người châu Âu bị đắm tàu gần các đường bờ biển của đảo, trong số đó có Robert Drury, nhật ký của người này là một trong các miêu tả bằng văn bản hiếm hoi về sinh hoạt tại nam bộ Madagascar trong thế kỷ XVIII. Sự giàu có bắt nguồn từ mậu dịch hàng hải khuyến khích sự nổi lên của các vương quốc có tổ chức trên đảo, một số trong đó phát triển khá hùng mạnh vào khoảng thế kỷ XVII. Trong số đó có liên minh Betsimisaraka ờ bờ biển phía đông và các tù bang Menabe cùng Boina của người Sakalava trên bờ biển phía tây. Vương quốc Imerina nằm tại các cao địa trung tâm với thủ đô tại vương cung Antananarivo, nổi lên vào khoảng thời gian Quốc vương Andriamanelo trị vì.
Vương quốc Madagascar
thumb|upright|right|Quốc vương [[Andrianampoinimerina (trị vì 1787–1810)]] Vào lúc nổi lên trong đầu thế kỷ XVII, vương quốc Imerina trên cao địa ban đầu là một thế lực tương đối nhỏ so với các vương quốc lớn hơn ở duyên hải Từ kinh đô ban đầu là Ambohimanga, và sau đó là từ Rova Antananarivo, Andrianampoinimerina nhanh chóng khuếch trương quyền cai trị của mình ra các quốc gia lân cận. Tham vọng kiểm soát được toàn bộ đảo của Andrianampoinimerina thực hiện được ở mức độ lớn dưới thời con trai và người kế vị của ông là Quốc vương Radama I, người này được chính phủ Anh Quốc công nhận là Quốc vương Madagascar. Năm 1817, Radama I ký kết một hiệp định với thống đốc của Anh Quốc tại Mauritius nhằm bãi bỏ mua bán nô lệ sinh lợi để đổi lấy viện trợ quân sự và chính trị của Anh Quốc. Các sứ tiết truyền giáo từ Hội Truyền giáo Luân Đôn bắt đầu đến đảo vào năm 1818, họ lập nên các trường học, dùng chữ cái Latinh để chép lại tiếng Malagasy, dịch Kinh Thánh, và đưa nhiều kỹ thuật mới đến đảo.
Phản ứng trước các xâm phạm về chính trị và văn hóa ngày càng tăng từ phía Anh Quốc và Pháp, người kế vị Radama I là Nữ vương Ranavalona I ban một chiếu chỉ nghiêm cấm hành lễ Ki-tô giáo tại Madagascar và ép buộc hầu hết người ngoại quốc phải rời khỏi lãnh thổ. Trong số những người ngoại quốc tiếp tục cư trú tại Imerina có Jean Laborde, ông phát triển đạn dược và các ngành công nghiệp khác tại vương quốc nhân danh quân chủ, và Joseph-François Lambert, một nhà thám hiểm và thương nhân nô lệ người Pháp, ông đã ký với Vương tử đương thời Radama II một thỏa thuận mậu dịch gây tranh luận được đặt tên là Hiến chương Lambert. Sau khi kế vị, Radama II nỗ lực nới lỏng các chính sách nghiêm ngặt của Nữ vương Ranavalona I, song hai năm sau ông bị lật đổ bởi Tể tướng Rainivoninahitriniony và một liên minh gồm các triều thần Andriana (quý tộc) và Hova (bình dân), những người này muốn chấm dứt quyền lực tuyệt đối của quân chủ. Rasoherina chấp thuận, đầu tiên bà tái giá với Rainivoninahitriniony, sau đó hạ bệ Rainivoninahitriniony và tái giá với em của người này là Tể tướng Rainilaiarivony, vị Tể tướng này sau đó lần lượt kết hôn với Nữ vương Ranavalona II và Nữ vương Ranavalona III.
Trong thời gian 31 năm Rainilaiarivony làm tể tướng, nhiều chính sách được thông qua nhằm hiện đại hóa và củng cố quyền lực của chính phủ trung ương. Đa thê bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, và triều đình tuyên bố Ki-tô giáo là quốc giáo vào năm 1869, tôn giáo này được một phần ngày càng tăng trong dân chúng chấp thuận đồng thời với các đức tin truyền thống. Các điều luật được cải cách dựa trên thông luật của Anh Quốc và ba tòa án kiểu Âu được thiết lập tại thủ đô. Đến cuối cuộc chiến, Madagascar nhượng đô thị cảng Antsiranana (Diego Suarez) ở phía bắc cho Pháp và trả 560.000 franc cho những người thừa kế của Lambert. Năm 1890, Anh Quốc chấp thuận đòi hỏi chính thức đầy đủ về một chế độ bảo hộ của Pháp trên đảo, song nhà cầm quyền Pháp không được chính phủ Madagascar công nhận. Để buộc chính phủ Madagascar đầu hàng, người Pháp bắn phá và chiếm cảng Toamasina trên bờ biển phía đông, và Mahajanga trên bờ biển phía tây, lần lượt vào tháng 12 năm 1894 và tháng 1 năm 1895. Một đội quân cơ động của Pháp sau đó hành quân hướng đến Antananarivo, để mất nhiều quân nhân do sốt rét và các bệnh khác. Quân tiếp viện của Pháp đến từ Algérie và châu Phi hạ Sahara. Khi đến thành phố vào tháng 9 năm 1895, đội quân này dùng pháo hạng nặng bắn phá vương cung, gây thương vong nặng nề và khiến Nữ vương Ranavalona III phải đầu hàng. Pháp sáp nhập Madagascar vào năm 1896 và tuyên bố đảo là một thuộc địa vào năm sau đó, bãi bỏ chế độ quân chủ Merina và đưa vương thất đi sống lưu vong trên đảo Réunion và đến Algérie. Một phong trào phản kháng kéo dài hai năm của người bản địa bị dập tắt trên thực tế vào cuối năm 1897.
Dưới thời cai trị thực dân, các đồn điền được lập ra để sản xuất nhiều nông sản xuất khẩu. Chế độ nô lệ bị bãi bỏ vào năm 1896, song nhiều người trong số 500.000 nô lệ được giải phóng vẫn ở tại gia viên chủ nhân cũ trong thân phận đầy tớ. Các đại lộ trải nhựa rộng rãi và các tòa nhà hội họp được xây dựng tại thủ đô Antananarivo và tổ hợp cung Rova được chuyển thành một bảo tàng. Có thêm các trường học được xây dựng, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn và duyên hải- những nơi chưa có trường dưới thời Merina. Giáo dục là bắt buộc trong độ tuổi từ 6 đến 13 và tập trung chủ yếu vào tiếng Pháp và các kỹ năng thực hành. Truyền thống của triều đình Merina về trả thuế dưới hình thức lao động vẫn tiếp tục dưới thời Pháp thuộc, những người này được sử dụng để xây dựng một tuyến đường sắt và các đường bộ kết nối các thành thị duyên hải chính yếu đến Antananarivo. Các quân nhân người Malagasy chiến đấu cho Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đảo là nơi diễn ra trận Madagascar giữa Chính phủ Vichy Pháp và Anh Quốc. Việc Pháp bị chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai làm hoen ố uy tín chính quyền thực dân tại Madagascar và kích động phong trào độc lập phát triển, dẫn đến Nổi dậy Malagasy vào năm 1947. Phong trào này khiến Pháp phải lập các thiết chế cải cách vào năm 1956 theo Loi Cadre (Đạo luật Cải cách Hải ngoại), và Madagascar chuyển dịch hướng đến độc lập một cách hòa bình. Cộng hòa Malagasy được tuyên bố vào ngày 14 tháng 10 năm 1958, với địa vị là một nước tự trị trong Cộng đồng Pháp. Một giai đoạn chính phủ lâm thời kết thúc bằng việc thông qua một bản hiến pháp vào năm 1959 và độc lập hoàn toàn vào ngày 26 tháng 6 năm 1960.
Quốc gia độc lập
thumb|right|upright|[[Philibert Tsiranana, tổng thống đầu tiên của Madagascar (1960–72)]] Kể từ khi giành được độc lập, Madagascar trải qua bốn nền cộng hòa tương ứng với số lần sửa đổi hiến pháp. Đệ Nhất cộng hòa (1960–72) dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Philibert Tsiranana, với đặc trưng là tiếp nối các quan hệ kinh tế và chính trị mạnh mẽ với Pháp. Nhiều vị trí cấp cao mang tính kỹ thuật được trao cho những người gốc Pháp; và các giáo viên tiếng Pháp, sách giáo khoa và chương trình giảng dạy tiếng Pháp tiếp tục được sử dụng trong các trường học trên toàn quốc. Phẫn uất của quần chúng đối với sự khoan dung của Tsiranana cho dàn xếp "tân thực dân" này kích động một loạt các cuộc biểu tình của nông dân và sinh viên, lật đổ chính quyền của Tsiranana vào năm 1972.
Trong bầu cử tổng thống năm 2001 gây tranh luận, thị trưởng Antananarivo khi đó là Marc Ravalomanana cuối cùng nổi lên là người chiến thắng. Sau đó là bế tắc chính trị kéo dài bảy tháng trong năm 2002 giữa những người ủng hộ của Ravalomanana và những người ủng hộ của Ratsiraka. Cuộc khủng hoảng chính trị tác động tiêu cực đến kinh tế, chúng dần được khắc phục bằng các chính sách kinh tế và chính trị tiến bộ của Ravalomanana. Theo đó, chính phủ Madagascar khuyến khích đầu tư vào giáo dục và du lịch sinh thái, tạo thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, và cải thiện quan hệ đối tác thương mại cả ở tầm khu vực và thế giới. Trong nửa sau nhiệm kỳ thứ hai của mình, Ravalomanana bị các quan sát viên quốc nội và quốc tế chỉ trích, họ cáo buộc ông ngày càng độc đoán và tham nhũng. Hery Rajaonarimampianina giành chiến thắng trong vòng hai cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào tháng 12 năm 2013.
Vào tháng 6 năm 2025, Ủy ban chung Pháp-Malagasy sẽ họp. Ủy ban này chịu trách nhiệm quyết định về việc trả lại các đảo rải rác cho Madagascar.
Địa lý
Madagascar có tổng diện tích , là quốc gia rộng lớn thứ 47 trên thế giới và đảo chính là đảo lớn thứ tư trên thế giới. Các đảo lân cận Madagascar gồm có tỉnh hải ngoại Réunion thuộc Pháp và quốc gia Mauritius ở phía đông, quốc gia Comoros và tỉnh hải ngoại Mayotte thuộc Pháp ở phía tây bắc. Phía tây là Mozambique, đây là quốc gia nằm gần Madagascar nhất trong số các quốc gia thuộc lục địa châu Phi, hai quốc gia tách biệt nhau qua eo biển Mozambique.
Việc siêu lục địa Gondwana vỡ vào thời tiền sử đã phân tách đại lục Madagascar-châu Nam Cực-Ấn Độ khỏi lục địa châu Phi-Nam Mỹ khoảng 135 triệu năm trước. Madagascar sau đó lại tách khỏi Ấn Độ từ khoảng 88 triệu năm trước, do vậy các loài thực vật và động vật trên đảo tiến hóa tương đối cô lập.
Dọc theo chiều dài bờ biển phía đông của đảo là một vách đứng hẹp và dốc, có phần lớn rừng đất thấp nhiệt đới còn lại của đảo. Ở phía tây của dãy này một cao nguyên nằm ở trung tâm của đảo với cao độ từ trên mực nước biển. Các cao địa trung tâm này về mặt lịch sử là quê hương của người Merina và có thủ đô Antananarivo, là phần có mật độ dân cư đông đức nhất của đảo và có đặc trưng là địa hình bậc thang, các thung lũng trồng lúa nằm giữa các đồi cỏ và các rừng bán ẩm nằm rải rác mà khi trước từng bao phủ khu vực cao địa. Ở phía tây của các cao địa, địa hình ngày càng khô hạn và dần dốc xuống eo biển Mozambique, tiếp đến là các đầm lầy ngập mặn nằm dọc bờ biển.
Các đỉnh cao nhất của Madagascar nổi lên từ ba khối cao địa lồi lên: Maromokotro trên khối núi Tsaratanana là điểm cao nhất trên đảo, tiếp theo là đỉnh Boby trên khối núi Andringitra và Tsiafajavona trên khối núi Ankaratra. Ở phía đông, Canal des Pangalanes (sông đào Pangalanes) là một chuỗi các hồ nhân tạo và tự nhiên kết nối bằng các kênh đào được người Pháp xây dựng ngay vùng nội địa gần đường bờ biển phía đông, chạy song song với nó khoảng . Mặt phía tây và phía nam nằm trên bóng mây của các cao địa trung tâm, có các rừng rụng lá khô, rừng gai, hoang mạc và cây bụi khô hạn. Do hai vùng này có mật độ dân số thấp, các rừng rụng lá khô của Madagascar được bảo tồn tốt hơn các rừng mưa ở phía đông hay các miền rừng nguyên bản trên cao nguyên trung tâm. Bờ biển phía tây có đặc trưng với nhiều bến cảng được che chắn, song lắng bùn là một vấn đề lớn do trầm tích, chúng xuất phát từ hiện tượng xói mòn nội địa ở mức độ cao và theo các sông chảy qua những đồng bằng phía tây rộng lớn.
Kết hợp của gió mậu dịch đông nam và gió mùa tây bắc tạo ra một mùa mưa nóng (tháng 11-4) với các xoáy thuận thường xuyên tấn công, và một mùa khô tương đối mát hơn (tháng 5–10). Những đám mây mưa bắt nguồn trên Ấn Độ Dương trút phần lớn hơi ẩm của chúng xuống bờ biển phía đông của đảo; lượng mưa lớn giúp nuôi dưỡng hệ sinh thái rừng mưa của vùng. Các cao địa trung tâm khô hơn và mát hơn, còn phần phía tây thì còn khô hơn nữa, một khí hậu bán khô hạn chiếm ưu thế tại nội địa phía tây nam và phía nam của đảo.
Sinh thái
Do cô lập kéo dài với các lục địa khác, Madagascar là nơi sinh sống của nhiều loài thực vật và động vật không tìm thấy ở nơi nào khác trên Trái Đất. Xấp xỉ 90% toàn bộ các loài thực vật và động vật được phát hiện được tại Madagascar là loài đặc hữu, bao gồm các loài vượn cáo, fossa ăn thịt và nhiều loài chim. Sự đặc biệt về sinh thái học này khiến một số nhà sinh thái học gọi Madagascar là "lục địa thứ tám", và đảo được Tổ chức Bảo tồn Quốc tế phân loại là một điểm nóng đa dạng sinh học.
Trên 80% trong số 14.883 loài thực vật của Madagascar không tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới, bao gồm 5 họ thực vật. Họ Didiereaceae gồm 4 chi và 11 loài chỉ hạn chế trong các khu rừng gai ở tây nam Madagascar. Ba phần tư Đảo là nơi sinh sống của khoảng 170 loài thuộc họ Cau, nhiều gấp ba lần so với số loài thuộc họ này tại đại lục châu Phi; 165 trong số đó là loài đặc hữu. Nhiều loài thực vật bản địa được sử dụng làm thảo dược để chữa nhiều bệnh. Các dược phẩm vinblastine và vincristine, sử dụng để điều trị bệnh u Hodgkin, ung thư bạch cầu và các loại ung thư khác, được lấy từ dừa cạn Madagascar. Chuối rẻ quạt, người dân địa phương gọi là ravinala và là loài đặc hữu trong các rừng mưa phía đông, là loài mang tính biểu tượng cao của Madagascar và được đưa vào quốc huy cũng như biểu trưng của Air Madagascar.
Động vật Madagascar cũng đa dạng và có tỷ lệ đặc hữu cao. Vượn cáo được Tổ chức Bảo tồn Quốc tế mô tả là "loài thú kì hạm của Madagascar". 39 trong số đó do các nhà động vật học mô tả từ năm 2000 đến năm 2008. Chúng hầu như đều được phân loại là loài quý hiếm, dễ bị tổn thương, hoặc gặp nguy hiểm. Có ít nhất 17 loài vượn cáo bị tuyệt chủng kể từ khi loài người đến Madagascar, toàn bộ trong số đó đều lớn hơn các loài vượn cáo còn lại ngày nay.
Một số loài thú khác, bao gồm fossa giống như họ Mèo, là loài đặc hữu của Madagascar. Ghi nhận được trên 300 loài chim trên đảo, trong đó trên 60% (gồm 4 họ và 42 chi) là loài đặc hữu. gồm có Brookesia micra- loài nhỏ nhất được biết tới. Các loài cá đặc hữu tại Madagascar bao gồm hai họ, 14 chi, và trên 100 loài, sống chủ yếu trong các hồ nước ngọt và sông trên đảo. Mặc dù các động vật không xương sống vẫn còn được nghiên cứu ít tại Madagascar, song các nhà nghiên cứu phát triện ra tỷ lệ cao các loài đặc hữu trong số những loài được biết đến. Toàn bộ 651 loài ốc cạn là loài đặc hữu, tương tự như phần lớn bướm, bọ hung, cánh gân, nhện, chuồn chuồn trên đảo. Từ khi loài người đến đảo vào khoảng 2.500 năm trước, Madagascar mất trên 90% rừng nguyên sinh. Số rừng mất đi này phần lớn là do tavy (màu mỡ hay béo), một thói quen nông nghiệp 'chặt và đốt' được những người định cư đầu tiên đưa đến Madagascar. Do mật độ dân số tại đảo tăng lên, phá rừng bắt đầu tăng tốc từ khoảng 1.400 năm trước. Đến khoảng thế kỷ XVI, các khu rừng nguyên sinh tại cao địa trung tâm phần lớn đã bị phát quang. Theo một ước tính thận trọng, khoảng 40% số rừng che phủ nguyên sinh bị mất từ thập niên 1950 đến năm 2000, các miền rừng còn lại thưa đi khoảng 80%. Có dự đoán rằng toàn bộ các rừng mưa trên đảo, trừ rừng trong các khu vực được bảo vệ và các sườn núi phía đông dốc nhất, sẽ bị phát quang cho đến năm 2025.
Tàn phá môi trường sống và săn bắn đe dọa nhiều loài đặc hữu của Madagascar hoặc đẩy chúng đến tuyệt chủng. Các loài chim voi trên đảo là một họ đà điểu khổng lồ đặc hữu, chúng bị tuyệt chủng vào thế kỷ XVII hoặc trước đó, nguyên nhân khả dĩ nhất là do loài người săn bắn chim trưởng thành và lấy những quả trứng vốn có kích thước to của chúng để làm thực phẩm. Nhiều loài vượn cáo khổng lồ biến mất cùng với việc những người định cư đến đảo, trong khi các loài khác bị tuyệt chủng trong quá trình kéo dài nhiều thế kỷ khi mà dân số loài người tăng lên tạo áp lực lớn hơn lên môi trường sống của vượn cáo, và trong một số cộng đồng dân cư, tốc độ săn bắn vượn cáo làm thực phẩm tăng lên.
Chính phủ
Madagascar là một nước cộng hòa đa đảng dân chủ đại nghị bán tổng thống, trong đó tổng thống dân cử là nguyên thủ quốc gia và lựa chọn một thủ tướng, người này giới thiệu các ứng cử viên bộ trưởng lên tổng thống để hình thành nội các. Theo hiến pháp, quyền hành pháp do chính phủ thực thi, quyền lập pháp được trao cho nội các bộ trưởng, Tham nghị viện và Quốc hội, song trên thực tế hai cơ quan sau có rất ít quyền lực hay vai trò lập pháp. Ở cấp địa phương, mỗi một trong 22 tỉnh của quốc gia do một thống đốc và hội đồng tỉnh quản lý. Tỉnh được chia thành các vùng và xã. Hệ thống tư pháp của Madagascar theo mô hình của hệ thống Pháp, với một Tòa án Hiến pháp cấp cao, Tòa án Tư pháp cấp cao, Tòa án Tối cao, Tòa án Thượng thẩm, các tòa án hình sự, và các tòa án xét xử sơ thẩm. Các tòa án tuân theo dân luật, và thiếu khả năng để xét xử nhanh chóng và minh bạch các vụ tố tụng trong hệ thống tư pháp, thường bắt người bị cáo phải chịu giam giữ kéo dài trong các nhà tù thiếu vệ sinh và đông đúc trước khi được xét xử. Một loạt các cuộc biểu tình do Andry Rajoelina lãnh đạo nhằm chống Tống thống Marc Ravalomanana vào đầu năm 2009 đã trở nên quá khích, với trên 170 người bị giết. Sau khi chính phủ chuyển tiếp của Andry Rajoelina được lập ra, nhiều nhà tài trợ song phương và tổ chức liên chính phủ đóng băng viện trợ và đình chỉ quan hệ ngoại giao chính thức với Madagascar, khiến phát triển kinh tế bị đình trệ và nhiều thành tựu đạt được dưới chính phủ trước đó bị đảo ngược. Chính trị hiện đại tại Madagascar mang màu sắc lịch sử của việc người Merina khuất phục các cộng đồng duyên hải dưới quyền cai trị của họ trong thế kỷ XIX. Hậu quả tất nhiên là tình trạng căng thẳng giữa dân cư cao địa và duyên hải bùng phát theo định kỳ thành các sự kiện bạo lực riêng biệt.
Madagascar về mặt lịch sử được nhìn nhận là đứng bên lề các công việc chính của châu Phi mặc dù đảo quốc là một sáng lập của Tổ chức châu Phi Thống nhất, tiền thân của Liên minh châu Phi. Madagascar không được cho phép tham dự hội nghị thượng đỉnh đầu tiên của Liên minh châu Phi do tranh chấp về kết quả bầu cử tổng thống năm 2001, song tái gia nhập Liên minh châu Phi vào tháng 7 năm 2003 sau 14 tháng gián đoạn. Tuy nhiên, Madagascar lại bị Liên minh châu Phi đình chỉ tư cách thành viên vào tháng 3 năm 2009 sau khi quyền hành pháp được chuyển giao cho Andry Rajoelina một cách vi hiến. Madagascar là một thành viên của Tòa án Hình sự Quốc tế với một Hiệp định miền trừ song phương nhằm bảo vệ các quân nhân Hoa Kỳ.
Quốc phòng
Sự nổi lên của các vương quốc tập trung hóa của người Sakalava, Merina và các dân tộc khác hình thành nên các quân đội thường trực đầu tiên trên đảo vào khoảng thế kỷ XVI. Ban đầu, các quân nhân được trang bị với giáo, song sau đó là với súng hỏa mai, súng thần công và các sùng cầm tay khác. Đến khoảng đầu thế kỷ XIX, các quân chủ người Merina của Vương quốc Madagascar kiểm soát được phần lớn đảo nhờ huy động được một quân đội được đào tạo và số quân nhân được vũ trang lên đến 30.000 người. Các cuộc tấn công của Pháp vào các đô thị ven biển vào cuối thế kỷ XIX thúc đẩy Tể tướng đương thời là Rainilaiarivony khẩn khoản người Anh giúp cung cấp sự huấn luyện cho quân đội của vương quốc. Mặc dù được các cố vấn quân sự người Anh huấn luyện và lãnh đạo, quân đội Malagasy vẫn không thể chống cự trước các vũ khí của người Pháp và buộc phải đầu hàng sau một cuộc tiến công vào vương cung tại Antananarivo. Madagascar được tuyên bố là một thuộc địa của Pháp vào năm 1897.
Độc lập chính trị và chủ quyền của các lực lượng vũ trang Malagasy, bao gồm lục quân, hải quân, và không quân, được khôi phục khi quốc gia giành độc lập từ Pháp vào năm 1960. Kể từ đó, quân đội Malagasy chưa từng tham gia vào xung đột quân sự với quốc gia khác hay trong biên giới của mình, song đôi khi tiến hành can thiệp nhằm khôi phục trật tự trong các giai đoạn bất ổn định chính trị. Dưới chế độ Đệ Nhị Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa, Đô đốc Didier Ratsiraka áp đặt nghĩa vụ quân sự hoặc dân sự bắt buộc với toàn bộ thanh niên Madagascar bất kể giới tính, chính sách này duy trì hiệu lực từ năm 1976 đến năm 1991. Quân đội nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ trưởng Nội vụ Tòa án cộng đồng truyền thống, được gọi là dina, do những người cao tuổi hoặc các nhân vật đại diện khác chủ trì. Chúng vẫn là một cách thức quan trọng để tư pháp được thực thi tại các khu vực nông thôn, vốn là những nơi mà nhà nước có sự hiện diện còn yếu kém. Về mặt lịch sử, an ninh trên toàn đảo quốc tương đối cao. Lĩnh vực nông nghiệp đóng góp 29% GDP của Madagascar trong năm 2011, trong khi lĩnh vực chế tạo đóng góp 15% GDP. Các nguồn tăng trưởng của Madagascar là du lịch, nông nghiệp và khai khoáng. Du lịch tập trung vào phân khúc thị trường du lịch sinh thái, tận dụng lợi thế đa dạng sinh học độc đáo của Madagascar, những môi trường sống tự nhiên chư bị làm hại, các vườn quốc gia và các loài vượn cáo. Một ước tính nói rằng có 365.000 du khách đến Madagascar vào năm 2008, song lĩnh vực này chịu sự suy giảm sau khủng hoảng chính trị và đến năm 2010 chỉ có 180.000 du khách đến thăm đảo quốc.]] Madagascar có nhiều tài nguyên nông nghiệp và khoáng sản chưa chế biến. Nông nghiệp, gồm có cọ sợi, ngư nghiệp và lâm nghiệp, là một trụ cột của nền kinh tế. Madagascar là quốc gia hàng đầu thế giới về cung cấp vani, đinh hương và hoàng lan. Các tài nguyên nông nghiệp quan trọng khác gồm có cà phê, vải, và tôm. Các tài nguyên khoáng sản quan trọng gồm có nhiều loại đá quý và đá bán quý, và Madagascar hiện cung cấp một nửa nguồn cung xa-phia của thế giới, loại khoáng sản này được phát hiện tại Ilakaka vào cuối thập niên 1990. Đảo cũng là một trong những nơi có trữ lượng lớn nhất thế giới về ilmenit (quặng titan), cũng như các trữ lượng quan trọng các khoáng sản cromit, than đá, sắt, đồng, và niken. khai thác niken gần Moramanga và chế biến nó gần Toamasina của Sherritt International, và phát triển các mỏ dầu nặng trên bờ khổng lồ tại Tsimiroro và Bemolanga của Madagascar Oil.
Xuất khẩu chiếm 28% GDP vào năm 2009. Tiếp cận với điện thoại di động và internet là điều phổ biến tại các khu vực đô thị song vẫn hạn chế tại các khu vực nông thôn của đảo quốc. Xấp xỉ 30% số huyện có thể tiếp cận một số mạng lưới viễn thông tư nhân của quốc gia thông qua điện thoại di động hay cố định. góp phần vào phân cực chính trị trong việc tường trình. Truyền thông về mặt lịch sử nằm chịu nhiều mức độ áp lực trong các thời kỳ nhằm kiểm duyệt chỉ trích của họ đối với chính phủ. Các ký giả đôi khi bị đe dọa quấy rối và các hãng truyền thông nhỏ bị buộc đóng cửa theo định kỳ.
Nhân khẩu
Dân tộc
thumb|right|Phân bổ khu vực của các phân nhóm dân tộc Malagasy. Năm 2012, dân số của Madagascar được ước tính là 22 triệu. song di truyền học của một số cộng đồng cho thấy thế trội của nguồn gốc Nam Đảo hay Bantu hoặc một chút tổ tiên Ả Rập, Ấn Độ hoặc châu Âu. Nguồn gốc Nam Đảo chiếm thế trội nhất trong cộng đồng người Merina trên các cao địa trung tâm, và có thể nhóm vào một trong hai phân nhóm là đông Malagasy và tây Malagasy. Phân nhóm đông Malagasy được nói dọc theo các khu rừng phía đông và cao địa, và bao gồm phương ngôn Merina ở Antananarivo. Phân nhóm tây Malagasy được nói trên khắp các đồng bằng duyên hải phía tây. Tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức từ khi đảo là thuộc địa của Pháp. Trong hiến pháp quốc gia đầu tiên vào năm 1958, tiếng Malagasy và tiếng Pháp được ghi là các ngôn ngữ chính thức của Cộng hòa Malagasy. Madagascar là một quốc gia Pháp ngữ, và tiếng Pháp được nói trong nhóm dân cư có học. Trong Hiến pháp 2007, tiếng Malagasy vẫn là ngôn ngữ quốc gia trong khi ngôn ngữ chính thức được ghi là tiếng Malagasy, tiếng Pháp, và tiếng Anh. Tiếng Anh bị loại bỏ địa vị là một ngôn ngữ chính thức sau cuộc trưng cầu dân ý hiến pháp vào năm 2010. Tôn kính thổ tiên cũng được thể hiện thông qua việc tuân thủ fady, là những điều kiêng kỵ trong và sau khi người thiết lập ra chúng qua đời. Hiến tế zebu là một phương pháp truyền thống được sử dụng để an ủi hay vinh danh tổ tiên. Thêm vào đó, truyền thống Malagasy tin vào một thần tạo vật, được gọi là Zanahary hay Andriamanitra.
Gần một nửa dân số Malagasy theo Kitô giáo, với Đạo Tin Lành đông hơn Công giáo.
Ngày nay, nhiều Kitô giáo hữu tích hợp các đức tin tôn giáo của họ với các truyền thống liên quan đến tưởng nhớ tổ tiên. Ví dụ, họ có thể ban phước cho người chết tại nhà thờ trước khi tiến hành các nghi lễ an táng truyền thống hoặc mời một mục sư Ki-tô giáo đến cúng lễ cải táng famadihana.
Hồi giáo và Ấn Độ giáo cũng được hành lễ trên đảo. Hồi giáo được đưa đến đảo lần đầu tiên vào thời kỳ Trung Cổ nhờ các thương nhân Hồi giáo người Ả Rập và Somali, họ lập nên một số trường Hồi giáo dọc theo duyên hải phía đông. Mặc dù việc sử dụng chữ Ả Rập và các từ mượn, chấp thuận thuật chiêm tinh Ả Rập lan rộng khắp đảo, song Hồi giáo chỉ có thể được thực hành tại các cộng đồng duyên hải đông nam bộ. Ngày nay, người Hồi giáo chiếm 7% dân số của Madagascar và tập trung nhiều tại các tỉnh tây bắc bộ là Mahajanga và Antsiranana. Người Hồi giáo được phân chia trong các dân tộc Malagasy, Ấn Độ, Pakistan, và Comoros. Gần đây nhất, Ấn Độ giáo được đưa đến Madagascar thông qua những người Gujarat nhập cư từ vùng Saurashtra của bang Gujarat thuộc Ấn Độ vào cuối thế kỷ XIX. Hầu hết người Ấn Độ giáo tại Madagascar nói tiếng Gujarat hay tiếng Hindi tại nhà.
Giáo dục
thumb|right|Một lớp học tại Madagascar.
Trước thế kỷ 19, toàn bộ hoạt động giáo dục tại Madagascar là không chính thức và thường phục vụ việc dạy các kỹ năng thực hành cũng như các giá trị xã hội và văn hóa, bao gồm tôn trọng tổ tiên và trưởng lão. song được mở lại và mở rộng trong nhiều thập niên sau khi nữ vương này từ trần. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX, Madagascar có hệ thống trường học phát triển và hiện đại nhất trong các quốc gia châu Phi hạ Sahara tiền thuộc địa. Khả năng tiếp cận trường học được mở rộng tại các khu vực duyên hải trong thời kỳ thuộc địa, trọng tâm của chương trình giảng dạy là tiếng Pháp và các kỹ năng làm việc cơ bản. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, giáo dục Madagascar tiếp tục dựa vào các giáo viên người Pháp, và tiếng Pháp là ngôn ngữ giảng dạy, điều này khiến những người muốn đoạt tuyệt hoàn toàn với quyền lực thực dân cũ cảm thấy khó chịu. Chính sách bản địa hóa này diễn ra đồng thời với kinh tế suy sụp nghiêm trọng và chất lượng giáo dục suy giảm đột ngột. Những người được giáo dục trong giai đoạn này thường thiếu thành thạo tiếng Pháp hoặc nhiều môn học khác và phải vật lộn để tìm kiếm việc làm, buộc nhiều người phải làm các công việc lương thấp trên thị trường không chính thức hay là chợ đen, đẩy họ lún sâu vào nghèo đói. Ngoại trừ nhiệm kỳ tổng thống ngắn ngủi của Albert Zafy, từ năm 1992 đến 1996, trong giai đoạn cầm quyền của mình từ 1975 đến 2001, Didier Ratsiraka không thực hiện được tiến bộ đáng kể nào về giáo dục.
Giáo dục được ưu tiên dưới chính quyền của Marc Ravalomanana, và hiện đang miễn phí và bắt buộc đối với trẻ từ 6 đến 13 tuổi. Chu trình tiểu học là 5 năm, tiếp theo là 4 năm sơ trung học và 3 năm cao trung học. Năm 2008, chi tiêu công cho giáo dục chiếm 13,4% tổng chi tiêu của chính phủ và 2,9% GDP. Các lớp học ở tiểu học có tình trạng đông đúc, với tỷ lệ học sinh so với giáo viện là 47:1 vào năm 2008.
Y tế
thumb|upright|right|Tỷ suất tử vong sản phụ giảm sau năm 1990 song tăng cao sau năm 2009 do bất ổn định chính trị. Chính phủ cung cấp ít nhất một trung tâm y tế cơ bản cho một xã. Các trung tâm y tế tư nhân tập trung tại các khu vực đô thị và đặc biệt là các đô thị tại các cao địa trung tâm. [[Bệnh sán máng, sốt rét và các bệnh lây qua đường tình dục vẫn phổ biến tại Madagascar, song tỷ lệ lây nhiễm AIDS vẫn tương đối thấp so với nhiều quốc gia tại đại lục châu Phi, với chỉ 0,2% dân số trưởng thành. Tỷ suất tử vong do sốt rét ở mức thấp nhất tại châu Phi với 8,5 trường hợp trên 100.000 dân, một phần là do người dân đảo quốc có tỷ lệ dùng màn tẩm hóa chất chống côn trùng cao nhất tại châu Phi. Người Malagasy có truyền thống tham vấn Mpanandro ("ông tạo ngày") để xác định ngày tốt nhất cho các sự kiện quan trọng như hôn lễ hoặc famadihana, theo một hệ thống chiêm tinh truyền thống do người Ả Rập đưa đến. Tương tự như vậy, các quý tộc trong nhiều cộng đồng Malagasy vào thời kỳ tiền thuộc địa thường sử dụng các cố vấn được gọi là ombiasy là người Antemoro ở đông nam, là nhóm người có tổ tiên là những người Ả Rập định cư ban đầu.
Nguồn gốc đa dạng của văn hóa Malagasy được thể hiện rõ trong các biểu hiện hữu hình. Nhạc khí điển hình của Madagascar là valiha, là một đàn tranh ống tre do những người định cư ban đầu từ nam bộ Borneo đưa đến Madagascar, và rất tương đồng với các dạng được tìm thấy tại Indonesia và Philippines ngày nay. Nhà truyền thống tại Madagascar cũng tương tự như tại nam bộ Borneo về tính tượng trưng và xây dựng, có bố cục hình chữ nhật với một vòm mái có chóp nhọn và cột chống trung tâm. Phản ánh sự phổ biến của tôn kính tổ tiên, các mộ có ý nghĩa quan trọng về mặt văn hóa và có xu hướng xây dựng bằng các vật liệu bền hơn, thường là đá, và biểu thị trang trí phức tạp hơn so với nhà của người còn sống. Việc sản xuất và dệt lụa có thể truy nguyên từ những người định cư sớm nhất trên đảo, và quốc phục của Madagascar là lamba đã phát triển thành một nghệ thuật đa dạng và tinh tế. Ảnh hưởng của văn hóa Đông Nam Á cũng thể hiện rõ trong ẩm thực Malagasy, trong đó gạo được tiêu thụ trong mọi bữa ăn, thường kèm với món rau hoặc thịt. Ảnh hưởng của đại lục châu Phi được thể hiện qua tầm quan trọng thiêng liêng của bò zebu và hiện thân của nó thể hiện sự giàu có của chủ sở hữu. Trộm cắp gia súc ban đầu là một nghi lễ thành niên của thanh niên tại các khu vực đồng bằng của Madagascar, là nơi có các đàn gia súc lớn, song hiện trở nên nguy hiểm và đôi khi manh động nên người chăn nuôi tại tây nam bộ phải cố gắng bảo vệ gia súc của họ bằng giáo mác truyền thống trước các kẻ trộm chuyên nghiệp ngày càng được vũ trang. Một sử thi minh họa các truyền thống này là Ibonia, được truyền qua nhiều thế kỷ dưới các hình thức khác nhau trên khắp đảo, và cung cấp cái nhìn sâu sắc về các thần thoại và đức tin đa dạng của các cộng đồng Malagasy truyền thống. Truyền thống này tiếp tục trong thế kỷ XX với các nghệ sĩ như Jean-Joseph Rabearivelo, ông được cho là nhà thơ hiện đại đầu tiên của châu Phi, và Elie Rajaonarison, một mô phạm của làn sóng mới của thơ Malagasy. Madagascar cũng phát triện một di sản âm nhạc phong phú, thể hiện qua hàng chục thể lại âm nhạc cấp khu vực như salegy ở duyên hải hay hiragasy ở cao địa, tạo không khí sôi nổi trong các cuộc hội họp của làng, sàn nhảy đia phương và các làn sóng quốc gia.
Các nghệ thuật tạo hình cũng phổ biến trên khắp đảo quốc. Ngoài truyền thống dệt lụa và sản xuất lamba, dệt từ sợi cọ sợi và các nguyên liệu thực vật bản địa khác được sử dụng để tạo ra các mặt hàng thiết thực được dùng rộng rãi như chiếu sàn, rổ, ví, mũ. Khắc gỗ là một hình thức nghệ thuật phát triển cao, với các phong cách vùng miền riêng biệt thể hiện trong trang trí hàng rào ban công và các yếu tố xây dựng khác. Các thợ chạm tạo ra nhiều loại đồ nội thất và gia dụng, các cột ma aloalo, và các công trình điêu khắc bằng gỗ, nhiều trong số đó được sản xuất để phục vụ thị trường du lịch. Các truyền thống làm đồ gỗ trang trí và chức năng của người Zafimaniry ở cao địa trung tâm được ghi vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO vào năm 2008.
Trong cộng đồng người Antaimoro, sản xuất giấy gắn hoa và các vật liệu tự nhiên trang trí khác là một truyền thống lâu đời, và bắt đầu là một thị trường của du lịch sinh thái.
Thể thao và giải trí
Một số trò tiêu khiển truyền thống nổi bật tại Madagascar. Moraingy là một thể loại võ thuật truyền thống dùng tay, là một môn thể thao có khán giả phổ biến tại khu vực duyên hải. Theo truyền thống thì môn này do nam giới chơi, song nữ giới gần đây cũng bắt đầu tham gia. Đấu vật với bò zebu (tolon-omby) cũng được tiến hành tại nhiều khu vực. Ngoài thể thao, nhiều loại trò chơi cũng tồn tại, điển hình nhất là fanorona, một trò chơi cờ bàn phổ biến khắp các khu vực cao địa. Theo truyền thuyết dân gian, việc kế vị của Andrianjaka theo sau cha Ralambo một phần là do nỗi ám ảnh rằng anh của Andrianjaka có thể do chơi fanorona mà gây tổn hại đến các trách nhiệm khác của ông.
Các trò giải trí của phương Tây được đưa đến Madagascar trong hai thế kỷ qua. Bóng bầu dục được cho là môn thể thao quốc gia của Madagascar. bóng đá cũng phổ biến. Madagascar có một nhà vô địch thế giới trong môn bi sắt, trò chơi này được chơi rộng rãi tại các khu vực đô thị và trên khắp các vùng cao địa. Các chương trình thể dục trong trường học thường gồm có bóng đá, điền kinh, judo, quyền Anh, bóng rổ nữ và quần vợt nữ. Madagascar cử các vận động viên đầu tiên tham gia Thế vận hội vào năm 1964 và cũng tham gia Đại hội thể thao Toàn Phi.